PGS. TS Đỗ Thị Minh Thúy
Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
- Vị trí của văn học Phật giáo thời Tự chủ trong văn hóa dân tộc
Thời Bắc thuộc, chí ít cũng lưu lại bài Phú Bạch vân chiếu xuân hải của Khương Công Phụ người xứ Thanh, thi đậu tiến sỹ đời Đường Đức Tông (730-805) và một tấm bia tìm thấy ở Thanh Hóa niên hiệu Tùy Đại Nghiệp thứ 14 (năm 618) ghi công tích của một quan lại người Hoa lấy vợ Việt, cát cứ ở Thanh chống lại Thiên triều. Sự tác động của tầng lớp trí thức Nho giáo là người Việt, người Hán bị Việt hóa suốt thời kỳ Bắc thuộc trong việc thêm vào văn hóa Lạc Việt tới độ biến cải, làm xuất hiện một nền văn hóa mới đã không diễn ra. Văn học thời Tự chủ với sứ mệnh của các trí thức Phật giáo đã hoàn tất quá trình giao lưu văn hóa (cưỡng bức và tự nhiên) kéo dài suốt thời kỳ Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên mới cho văn hóa Đại Việt.
Sự tiếp biến văn hóa trong văn học thời Tự chủ đã diễn ra từ trong quá trình phát triển tự nhiên của văn học thành văn trên nền văn hóa dân gian và tôn giáo. Dạng thức tác phẩm xuất hiện thể hiện một cách rõ rệt phương thức sinh hoạt văn hóa đương thời, đồng thời phản ánh quá trình tiếp biến văn hóa, chỉ ra sự phát triển ban đầu của văn học – văn học thành văn với ngôn ngữ, chữ viết, thể loại tiếp thu từ văn học Trung hoa – tức bao gồm tất cả các yếu tố ngoại lai đã thâm nhập vào đời sống văn hóa dân tộc, được vận hành như thế nào để trở thành nhân tố nội sinh của văn hóa Việt, do đó tạo thành bản sắc riêng của văn hóa dân tộc.
Văn học thời Tự chủ chỉ còn khoảng trên dưới 20 bài qua các triều Ngô, Đinh, Lê đến đầu Lý, tồn tại dưới dạng thức là những bài kệ, các bài sấm thi, các bài từ và các bài chiếu, biểu. Về mặt thể loại, văn học viết bằng chữ Hán mới phát triển ở các hình thức biền văn, chủ yếu dùng trong hành chính và thơ gồm các thể thơ ít gò bó về niên luật của Trung Quốc như: thể từ khúc, thể tuyệt cú, bát cú cách luật. Tình hình thể loại như vậy thể hiện khả năng tiếp nhận của văn hóa bản địa. Về mặt nội dung, các tác phẩm giai đoạn này đã bao chứa ít nhất ba khuynh hướng văn học lớn về sau: Khuynh hướng văn học gắn với đời sống chính trị; Khuynh hướng triết lý (trên nền tảng tư tưởng Phật giáo, sau này trên nền tảng tư tưởng Nho giáo); Khuynh hướng giao tiếp thông qua hình thức giải trí. Đặc biệt các tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này đều do các thiền sư sáng tác. Văn học Phật giáo đã góp phần quan trọng mở ra thời kỳ văn học cổ điển của nước nhà từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX.
Dưới đây là ba khuynh hướng văn học được sắp xếp theo dạng thức mà tác phẩm văn học xuất hiện:
- Khuynh hướng giải trí: Tác phẩm văn học trước hết là một bộ phận của nghệ thuật ca hát dân gian.
Khuynh hướng giải trí được ghi nhận khá sớm trong văn học thành văn qua bài thơ của nhà sư Ngô Chân Lưu làm năm 987 theo thể từ khúc, điệu Nguyễn lang quy. Bài thơ được coi là một cột mốc trong lịch sử văn học viết của dân tộc. Nguồn gốc bài thơ là sáng tác nhằm mục đích nghênh tiếp sứ giả nhà Tống: Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương, Ngóng vị thần tiên lại đế hương, Non nước nghìn trùng vượt đại dương, Trời xa bao dặm trường! Tình thảm thiết. Chén đưa đường. Vin xe xứ giả vấn vương! Dám xin tâu rõ cùng thánh thượng: Lưu ý chốn biên cương (Thơ văn Lý – Trần, 1977:209)
Việc sử dụng thành thạo thể từ khúc trong bài thơ này, chứng tỏ văn học đã phát triển. Do không còn một văn bản nào được ghi nhận trước đó, có thể ước đoán rằng, một trong cách thức tồn tại của tác phẩm văn học thành văn lúc ban đầu là dưới hình thức văn – nhạc bất phân. Đặc điểm này rất rõ qua phác đồ nghệ thuật folklore Đông Nam Á trong đó các yếu tố nhạc, múa, lời ca gắn kết với nhau. Phạm Đức Dương (Văn hóa học đại cương…,1996: 204) cho rằng: văn hóa các dân tộc Đông Nam Á có sự gần gũi nhau qua các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian: Về nhạc cụ, trống đồng đã được tìm thấy ở hầu hết vùng Đông Nam Á, bộ gõ cồng chiêng bằng đồng còn được nhiều dân tộc Đông Nam Á sử dụng. Trên nền nhạc là những điệu múa phỏng theo các thao tác nông nghiệp hoặc chiến trận, là nguồn gốc của các điệu múa tập thể. Về lời ca đã phát triển theo hai hướng là hát trữ tình đối đáp trao duyên nam nữ hoặc là lời kể của các thày mo về lai lịch đất trời tạo nên các bản trường ca sử thi được lưu truyền qua con đường truyền miệng
Văn hóa Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán trong hơn ngàn năm Bắc thuộc sớm rẽ theo con đường khác. Người Việt không có những bản trường ca dài như người Mường – một dân tộc anh em gần gũi. Văn học thành văn của người Việt phát triển rực rỡ từ sau thế kỷ X trên cơ sở tiếp nhận “văn hóa chữ viết” của người Hán, đồng thời được phát triển lên từ các sinh hoạt văn hóa có gắn với lời văn. Và do ca nhạc khá phát triển trong truyền thống nghệ thuật dân tộc, được dùng để giải trí nên chức năng giải trí nổi lên như một thuộc tính quyết định sự tồn tại, hiện diện của văn học trước khi các chức năng, thuộc tính khác được thể hiện. Chính vì vậy, thể từ khúc một thể thơ dân gian Trung Quốc gắn với nhạc, vừa được thể hiện bằng hình thức diễn xướng vừa được ghi chép tồn tại dưới dạng văn bản văn học độc lập, là thể thơ sớm được ghi nhận trong văn học thành văn của người Việt. Hình thức trình diễn của tác phẩm từ khúc đã tách khỏi lễ hội chỉ nhằm mục đích giải trí. Ngoài bài thơ của sư Ngô Chân Lưu, Gs Bùi Văn Nguyên (1992: 9) trong khi khảo cứu thể từ khúc, dẫn sách Văn hiến thông khảo chép việc sứ nhà Tống là Tống Cảo sang ta năm 990 được mời dự tiệc do Lê Hoàn chiêu đãi và được chính Lê Hoàn đã “tự hát mời rượu” nhưng Tống Cảo không hiểu được lời ca bằng tiếng Việt.
Tác phẩm từ khúc của sư Ngô Chân Lưu đã mở đầu cho dòng thơ gắn với nhạc tiếp tục được duy trì ở các thế kỷ sau, đặc biệt dòng thơ sáng tác theo thể từ khúc, dòng thơ hát nói viết bằng chữ nôm sáng tác cho hát ca trù v.v… nhưng có một điều là các tác phẩm thơ viết cho thể từ khúc còn lại đến ngày nay là ở giá trị văn học, trong quá trình phát triển của văn học dân tộc, yếu tố nhạc chìm dần và yếu tố văn tách ra mang tính độc lập với nhau, song vẫn còn dấu ấn của thể loại. Cũng theo Bùi Văn Nguyên:
Đời Trần, trừ tên một số bài không rõ lời ca như thế nào như: Trang Chu mộng điệp; Bạch lạc thiên mẫu từ biệt; Giang châu long; Nhập hoàng đô; Yến dao trì… có bài phú nổi tiếng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là bài phú lưu thủy pha điệu sở từ.
Đầu Lê (thế kỷ XV) Nguyễn Húc còn để lại một số bài theo các điệu vọng Giang Nam: Ức tần Nga; Bồ tát man; Diệp luyến hoa; Tây giang nguyệt; ngọc lâu xuân; Mạn đình phương; Tấm viên xuân…
Thế kỷ XVI Phùng Khắc Khoan với bài Thường xuân theo điệu Tấm viên xuân; Thế kỷ XVIII Phạm Thái với bài Cầm tháo theo điệu Tây giang nguyệt; và một số bài trong Thánh Tông di thảo của vua Lê Thánh tông (?), trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, trong Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm. Đào Duy Từ có làm mấy bài ngắn bằng quốc âm theo lối trường đoản cú trong Tư dung vãn. Riêng Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn là một khúc ngâm dài, một biệt lệ hay còn là một đỉnh cao của thể từ khúc.
Số lượng tác phẩm Từ khúc trong lịch sử văn học cổ điển như vậy là quá ít điều này nói lên khuynh hướng giải trí của văn học là khuynh hướng phát triển đôi khi quanh co ẩn khuất nhất trong trong các khuynh hướng văn chương thời Trung thế kỷ, và luôn gắn với âm nhạc. Bùi Duy Tân (1992: 9) cho rằng: “sự vắng vẻ của Từ và Khúc cũng có thể có mối tương quan nào đó với quan niệm văn học nhà Nho”. Có thể thấy tác động của ca nhạc lên đời sống xã hội rất rõ và thái độ của các trí thức đối với âm nhạc qua lời bàn về âm nhạc của nhà sư Nguyễn Thường đời Lý và Nguyễn Trãi đời Lê, hai trí thức đại diện cho hai hệ tư tưởng khác biệt nhưng lại rất nhất trí về quan điểm âm nhạc. Sư Nguyễn Thường trong lời can gián Lý Cao Tông viết “Tôi nghe, bài tựa Kinh thi có nói âm nhạc nước loạn nghe ai oán vì giận chính sự nước ấy sai trái. Âm nhạc của nước mất nghe bi thảm vì sót dân nước ấy khốn cùng.
Nay Chúa thượng rong chơi vô độ, chính giáo sai lìa, dân chúng khổ sở. Đến nay ngày càng tệ. Thế mà ngày ngày lại nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng là điềm nước mất, nước loạn hay sao…” (Thơ văn Lý – Trần, 1977: 528).
Còn lời tâu của Nguyễn Trãi với Lê Thái Tông bộc lộ rõ quan điểm của nhà Nho đề cao xu hướng chính trị của văn học và hạn chế xu hướng giải trí của nhạc và văn: “…Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng theo chiếu chỉ thẩm định nhã nhạc, không dám không hết lòng. Song học vấn sơ sài, nông cạn sợ trong áng thanh luật khó làm cho được hài hòa. Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăm nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được gốc của nhạc” (Nguyễn Trãi toàn tập, 1982:16).
Phải chăng, ở các thế kỷ sau, các quan điểm Nho giáo chính thống “văn dĩ minh đạo”, “thi dĩ ngôn chí” đã chi phối ý thức xã hội về tác phẩm văn học mang tính giải trí, khiến khuynh hướng này phát triển chậm chạp.
- Khuynh hướng gắn với đời sống chính trị: tác phẩm văn học xuất hiện dưới hình thức sấm thi.
Sấm thi – tức những lời phán truyền của thần linh, được phổ biến lưu truyền như cách thức các tác phẩm dân gian lưu truyền nhằm chuẩn bị dư luận cho mục đích chính trị. Do vậy, các tác phẩm thơ này thường khuyết danh, nhưng được xếp trong dòng văn học bác học vì những đặc điểm sau:
– Tác phẩm là lời thần báo mộng cho các nhân vật chính trị và do chính các nhân vật chính trị ghi chép lại. Đây là phương thức xuất hiện chủ yếu của đa số các bài thơ sấm như chùm thơ hai bài liên quan đến việc lên ngôi của Lê Long Đĩnh, tương truyền là do thần đã ứng khẩu cho Lê Long Đĩnh khi ông về Đằng Châu cầu mộng. Cũng như vậy, trong chùm thơ bảy bài liên quan đến việc lên ngôi của Lý Công Uẩn có tới bốn bài do thần báo mộng. Như bài Đức lớn ca ngợi Lý Thái Tổ do sư Đa Bảo triệu thần nhân ứng khẩu mấy câu thơ để tặng khi vua đến thăm chùa Kiến Sơ. Ba bài ca ngợi quê hương Cổ Pháp của Lý Công Uẩn do sư Vạn Hạnh chép lại trong khi ngồi nhập định ban đêm thường nghe thấy tiếng ngâm thơ ở ngôi mộ Đại vương Hiển Khánh (bố Lý Công Uẩn). Cũng xuất hiện tương tự như vậy là hai bài thơ đề cao Phật pháp liên quan đến sư Đa Bảo, về việc phá bỏ miếu thổ thần cạnh chùa Kiến Sơ.
– Tác phẩm là những câu thơ thần bí dùng lối triết tự chữ Hán để ám chỉ một dòng họ, một nhân vật chính trị. Những bài thơ loại này cần phải có trình độ am hiểu chữ Hán mới lý giải được. Ở những bài sấm sáng tác theo kiểu này, tùy thế và lực của các lực lượng chính trị đối lập mà lời thơ rõ ràng hay bí hiểm, như bài sấm: Đỗ Thích giết Đinh Đinh, Nhà Lê hiện thánh minh. Cạnh tranh, nhiều kẻ chết, Đường sá, người vắng tanh (Thơ văn Lý – Trần, 1977: 200). Căn cứ vào lời thơ không che đậy, chứng tỏ lực lượng chính trị do Lê Hoàn đứng đầu ở thế áp đảo, thơ có thể xuất hiện sau khi hai vua Đinh đã chết. Bài sấm nói về việc lên ngôi của Lý Công Uẩn do sư Vạn Hạnh đoán là bài Sấm tiêu biểu ở dạng này, rất gần gũi với lối dùng mật ngữ của Mật tông: Thụ căn diểu diểu, Mộc biểu thanh thanh. Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành. Chấn cung hiện nhật, Đoài cung ẩn tinh… (Thơ văn Lý – Trần, 1977: 224).
Mấy câu đó ý nói vua thì non yếu, tôi thì cường thịnh, họ Lê mất thì họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6,7 năm thì thiên hạ thái bình.
Thơ sấm, khách quan đã phản ánh tình hình chính trị buổi đầu Tự chủ, những mâu thuẫn của các thế lực phong kiến trong quá trình xây dựng nhà nước tập quyền và trong công cuộc bảo vệ đất nước. Yếu tố thần trong các bài thơ sấm phù hợp với trình độ dân trí, vì tôn giáo lúc này còn là một sức mạnh huyền bí chi phối hành động của con người nên yếu tố thần trong các bài Sấm có tác dụng thức tỉnh và tập hợp lực lượng. Về mặt văn học, thơ sấm tuy gắn với mục đích chính trị, nhưng nội dung rất uyển chuyển, phong phú. Ngoài những bài chơi chữ có phần bí hiểm, các bài thơ còn lại thực sự mở đầu cho các khuynh hướng trữ tình, anh hùng ca: Ngợi ca vịnh cảnh, vịnh người như bài ca ngợi Thần sông Đằng Châu, ba bài ca ngợi đất phát tích của Lý Công Uẩn.
Sấm thi với tính chất bác học trong phương diện truyền khẩu dân gian đã nối liền văn học dân gian với văn học bác học, làm cho dòng văn học bác học còn non trẻ có sức truyền cảm mạnh trong quần chúng
1.3. Khuynh hướng văn học mang tính triết lý, chủ yếu là các bài kệ do các thiền sư sáng tác.
Trong các tác giả thời Tự chủ có bốn vị thiền sư: Đỗ Pháp Thuận (915 – 990); Ngô Chân Lưu (993-1011); Đa Bảo (?-?), Nguyễn Vạn Hạnh (?-1018), thì chỉ có thiền sư Ngô Chân Lưu để lại hai câu thoại đầu: Thủy chung vô vật diệu hư không, Hội đắc chân như thể tự đồng (Sau trước có gì đâu/ hư không mới nhiệm mầu/Chân như, bằng hiểu được/tâm thể, cũng như nhau.) và một bài kệ: Lửa sẵn có trong cây, Vơi đi, chốc lại đầy. Ví cây không sẵn lửa, Xát lửa sao bùng ngay? (Thơ văn Lý – Trần, 1977: 211).
Thiền sư Vạn Hạnh để lại một bài kệ: Thân như bóng chớp có rồi không, Cây cối xanh tươi thu não nùng. Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi, Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đóng (Thơ văn Lý – Trần, 1977: 218).
Như vậy có ba bài mang khuynh hướng triết lý so với tổng số khoảng hai mươi bài còn lại của thời Tự chủ (từ Ngô – Đinh – Lê đến đầu Lý, không kể các tác phẩm của Lý Công Uẩn và các tác giả sau Lý Công Uẩn theo trình tự trong cuốn thơ văn Lý – Trần). Tuy nhiên, ba bài kệ đã mở đầu cho khuynh hướng văn học mang tính triết lý (khuynh hướng phát triển nhất sau này), bởi nó phản ánh thế giới quan tôn giáo của đa số trí thức Việt trong vòng gần 500 năm dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng chủ đạo là Phật giáo. Các bài kệ của thiền sư Ngô Chân Lưu, thiền sư Vạn Hạnh và mở rộng tới các phẩm thời Lý, cho thấy đa số là các bài kệ đọc trước khi mất hoặc các đoạn thoại đầu vấn đáp thiền. Như vậy, văn học Phật giáo nảy sinh từ nhu cầu thuyết pháp, suy tư thiền đạo chứ không xuất phát từ tự thân văn học. Do đặc tính của thiền học, các bài kệ thường kiệm lời, về thể loại thường được viết ở thể tuyệt cú, bát cú. Đóng góp của dòng văn học thiền là ở tính triết lý, ý tại ngôn ngoại – vốn là đặc trưng của thơ ca đã được phát triển từ buổi đấu của văn học thành văn của dân tộc. Một đóng góp đáng kể của dòng văn học Phật giáo là thể biền ngẫu dùng trong văn bia, các bản huyền tích, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện vẫn chưa phát hiện được một văn bản nào ở dạng này được lưu giữ từ thời Tự chủ.
Trên đây là ba khuynh hướng lớn trong văn học thời Tự chủ, nhưng có một điểm đáng lưu ý là ở tất cả các khuynh hướng đều có sự đóng góp của các thiền sư. Nếu thiền sư Đỗ Pháp Thuận trong Đáp Quốc vương Quốc tộ chi vấn còn mang thế giới quan tôn giáo trong bàn luận thế sự: Quốc tộ như đằng lạc. Nam thiên lý thái bình, Vô vi trên điện gác, Xứ xứ tức binh đao (Thơ văn Lý – Trần, 1977: 204), thì trong bài từ khúc đã dẫn ở trên và trong các bài sấm thi (liên quan đến các thiền sư Đa Bảo, Vạn Hạnh) hầu như thoát khỏi ảnh hưởng của Thiền đạo. Tính đa dạng trong trước tác của các vị thiền sư đặt ra nhiều vấn đề trong nghiên cứu tác giả, như sự tác động của thế giới quan đối với quá trình sáng tác.
- Văn học Phật giáo và sự phát triển của văn hóa dân tộc qua hai bài phú của Phật hoàng Trần Nhân Tông
Tiếp nối văn học thời Tự chủ, văn học thời Lý – Trần đã những bước phát triển vượt bậc. Đến thế kỷ XIII, văn học Phật giáo qua các tác phẩm của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đánh dấu một cấp độ mới trong sự phát triển của văn hóa dân tộc về hệ tư tưởng văn hóa (Phật giáo) và về thể loại văn học, chữ viết (chữ nôm).
2.1. Sự trưởng thành của văn học dân tộc về thể loại và chữ viết qua hai bài phú của Phật hoàng Trần Nhân Tông
Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là hai trước tác của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã thể hiện sự trưởng thành của văn học dân tộc thời Lý – Trần về thể loại, về chữ viết, về hệ tư tưởng Phật giáo – định hướng phát triển của văn hóa Đại Việt.
Sự phát triển vượt bậc của thể phú vào thời Trần, một thể loại văn học vắng bóng trong văn chương thời Lý cho thấy sự phát triển của văn học chịu sự chi phối bởi những quy luật riêng. Văn học Việt chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc cần có thời gian để tiếp thu và phát triển các thể loại phức hợp trong tư duy nghệ thuật. Nhận xét về sự phát triển của văn học Lý – Trần, Nguyễn Công Lý (2002: 72) cho rằng: “về số lượng và chất lượng thì vận văn nổi trội hơn tản văn; các thể loại trữ tình đạt nhiều thành tựu hơn thể loại tự sự”.
Để đánh giá vị trí, vai trò của thể phú trong văn học thời Trần, Nguyễn Thanh Phong (2012) đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn so sánh cụ thể khi tiếp cận thể phú trong tương quan với tản văn, biền văn trong sự phát triển thể loại văn học của Trung Quốc: “Về nguồn gốc kế thừa và phát triển, tản văn ra đời gắn liền với sự hình thành của văn tự để ghi chép, cùng với Kinh thi tạo nên thế đối lập về hình thức sáng tác giữa văn vần và văn xuôi. Những tác phẩm viết theo thể phú đầu tiên xuất hiện dưới thời Chiến Quốc của các văn sĩ nổi tiếng đương thời là Cảo Khanh với tác phẩm Phú thiên và Tống Ngọc với Phong phú, bản thân các tác giả này cũng từng sáng tác từ. Phú được hình thành trên cơ sở hình thức tản văn có tiếp thu đặc trưng của Sở từ và Kinh thi. Do từ được xây dựng trên cơ sở lời thơ kết hợp với những điệu hát, nên phú gián tiếp chịu ảnh hưởng lối gieo vần, tu từ của thơ ca và âm điệu hài hòa, tiết tấu nhịp nhàng của từ. Ngoài ra, phú còn tiếp thu truyền thống phúng thích của Kinh thi và thủ pháp phô trương (trong tả vật, ngôn chí) của Tung Hoành gia thời Chiến Quốc. Biền văn tiếp thu đặc trưng của từ phú thời Hán Ngụy, do đó đã gián tiếp chịu ảnh hưởng đặc trưng thể loại của tản văn và Kinh thi. Biền văn sử dụng hình thức câu biền ngẫu vốn xuất hiện nhiều trong phú, lặp đi lặp lại với tần suất cao, tạo nên thể loại mà đối ngẫu trở thành đặc trưng tiêu biểu nhất”. Như vậy, trong văn học Trung Quốc, thể phú giữ vị trí cầu nối giữa vận văn, tản văn, biền văn hay nói cách khác trong sự phát triển thể loại, phú đã tiếp thu các thể loại vận văn, tản văn có trước, và là nền tảng cho sự phát triển các thể loại biền văn sau này.
Phú xuất hiện, phát triển ở đời nhà Trần đã đi theo quy luật này. Từ tác phẩm từ khúc xuất hiện ngay buổi đầu Tự chủ đến các tác phẩm phú đời Trần đã cho thấy sự kết nối về thể loại cũng như sự phát triển của tư duy nghệ thuật đi từ đơn tuyến đến phức hợp. Do thời Lý không còn lưu một tác phẩm phú nào nên sự kết nối giữa từ khúc và phú có phần đứt quãng. Nhưng đặt sự phát triển của văn học trong văn hóa dân tộc, như đã phân tích ở phần trên về văn học thời Tự chủ, văn học nước ta phát triển dưới ảnh hưởng của văn học Trung Quốc nhưng đồng thời được phát triển lên từ các sinh hoạt văn hóa có gắn với lời văn và do sinh hoạt ca nhạc khá phổ biến trong truyền thống nghệ thuật dân tộc thì việc tiếp thu và phát triển phú ở thời Trần vẫn nằm trong sự phát triển tịnh tiến của văn học dân tộc.
Hơn nữa, sự xuất hiện của một thể loại văn học còn gắn với nhu cầu của thời đại, các nhà nghiên cứu văn học giai đoạn này đều nhất trí cho rằng phú với dung lượng câu không giới hạn, niên luật ít gò bó đã chuyển tải được những chủ đề đa dạng, phong phú: từ sự trình diễn những tư tưởng thiền học trong trước tác của Trần Nhân Tông, đến âm hưởng hào hùng của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên trong Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu, hay sự tự ý thức về phẩm giá con người trong Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi… Các bài phú chữ Nôm, chữ Hán nổi tiếng đã ra đời trong bối cảnh thời đại như vậy.
Sự trưởng thành của văn học dân tộc thời Trần còn bộc lộ qua văn tự, sử dụng chữ Nôm trong sáng tác thơ ca. Sự xuất hiện của chữ Nôm theo Nguyễn Lang (1973, 2012: 309) đó là thứ chữ của nhà chùa, do các nhà sư sáng tạo nên từ nhu cầu ghi chép họ tên những người muốn cầu an, cầu siêu, thọ giới…Đến thế kỷ XIII, chữ Nôm đã phát triển và được sử dụng khá phổ biến, theo Đại Việt sử ký toàn thư (Q.IV) (dẫn theo Đào Duy Anh, 1975: 16): “[Nguyễn] Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm. Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm thực bắt đầu từ đấy” và: “[Nguyễn] Sĩ Cố… giỏi khôi hài, hay làm thơ phú quốc ngữ. Nước ta làm thơ phú bằng quốc ngữ bắt đầu từ đấy”. Cả hai tác giả này đều có ảnh hưởng trực tiếp tới khuynh hướng sáng tác bằng chữ Nôm của vua Trần Nhân Tông. Nguyễn Sĩ Cố, năm Giáp Tuất (1274), được vua Trần Thánh Tông cho vời vào cung phong chức Nội thị học sĩ là thày dạy của thái tử Trần Khâm – vua Trần Nhân tông sau này; Còn Nguyễn Thuyên làm đến chức Thượng thư Bộ Hình đời Trần Nhân Tông, là người làm bài văn tế cá sấu trên sông Hồng, được nhà vua ban cho họ Hàn, sánh với Hàn Dũ.
Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông trong cuốn Thiền tông bản hạnh, bản in năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745) là những văn bản phú Nôm cổ nhất còn lưu lại đến nay. Cư trần lạc đạo phú chia làm 10 hội, mỗi hội 1 vần, theo Đào Duy Anh (1975:23, 25): “Xem thể cách thì thấy đã xa thể phú Hán mà gần thể phú Đường. Đã thấy đủ 3 yếu tố của thể phú Đường luật là: phép câu gối hạc, niêm luật chặt chẽ, đối ngẫu chỉnh tề. Nhưng so với tất cả những bài phú Nôm theo Đường luật từ thời Lê sơ về sau mà chúng ta còn giữ được thì thấy rằng phép đối ngẫu của bài này còn lỏng lẻo, nhiều chỗ chỉ đối ý chứ không đối sát từng lời từng chữ, và âm luật thì có chỗ còn chưa êm tai lắm…”. Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, viết theo thể Hán phú là thể phú có trước thể phú Đường luật, mỗi câu bốn chữ, có khi câu tám chữ được chia làm hai phần đều nhau. Cũng có nhà nghiên cứu coi Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca thuộc thể ngâm gần với vè dân gian. Đào Duy Anh cho rằng: về cách viết chữ Nôm của hai bài được viết theo phép giả tá, hình thanh và hội ý. Cả hai bài phú dùng nhiều từ Việt cổ như những từ: cóc, chỉn, đòi, han, mựa, nhẫn, sá, tua, thông… khó tìm thấy trong các văn bản Nôm thời sau. Về số từ là chữ Hán dùng trong 2 bài phú Nôm nói trên chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu đối chiếu với văn bản Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thì có thể đoán định rằng hai bài phú này có niên đại cổ hơn.
Như vậy, các tác phẩm phú chữ Nôm của vua Trần Nhân Tông là một cột mốc trên chặng đường phát triển của dòng văn học Phật giáo, đánh dấu sự trưởng thành của văn học dân tộc qua thể loại, chữ viết của dân tộc; Về thể tài, tác phẩm phú của vua Trần Nhân Tông đặc sắc trong phô diễn tư tưởng – những suy nghĩ về Thiền và chuẩn bị cho sự ra đời của Thiền phái Trúc lâm. Đóng góp lớn lao cho văn hóa dân tộc trong các bài phú của vua Trần Nhân Tông nằm ở tư tưởng thiền mà tác phẩm bao chứa.
2.2. Tư tưởng Thiền trong hai bài phú Nôm của Phật hoàng Trần Nhân Tông và những tác động tới sự phát triển của văn hóa dân tộc
Hai bài phú trong trước tác của Phật hoàng Trần Nhân Tông giữ một vị trí đặc biệt trong văn học Phật giáo đó là sự chuyển tải tư tưởng Thiền bằng văn chương, khuynh hướng văn học mang tính triết luận, gắn với đời sống chính trị xuất hiện trong các sáng tác của các thiền sư thời Tự chủ đã được kế thừa, bộc lộ trong sự phát triển nội tại của văn học. Ở đây, xin nhấn mạnh thêm khuynh hướng sử dụng văn chương chuyển tải tư tưởng Thiền, đã xuất hiện từ thời Tự chủ và được bồi đắp ở các thế kỷ sau qua ảnh hưởng ngày càng mạnh hơn của Nho giáo xuất phát từ hệ thống giáo dục của Nhà nước và cả qua tiếp nhận giao lưu văn hóa chứ không đơn thuần chỉ mới xuất hiện dưới thời Lý mà người khai mở là Thiền sư Thảo Đường như tác giả Nguyễn Lang (2012: 143) quan niệm: “ Thiền sư Thảo Đường cố nhiên đã giảng Tuyết Đậu Ngữ Lục nhiều lần tại chùa Khai Quốc; khuynh hướng thiền học trí thức và thi ca đã từ đó ảnh hưởng đến hai thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông…Sau này thiền phái Trúc Lâm của đời Trần còn tiếp tục chịu ảnh hưởng này”.
Như vậy, việc mỹ lệ hóa lời kệ đã có trong truyền thống thiền học Việt Nam mà chúng tôi cho rằng đã bắt đầu từ thời Tự chủ trên nền tảng văn hóa dân tộc, thì đến thời Trần và đến Trần Nhân Tông việc dùng văn tự để biểu đạt tư tưởng Thiền, hoàn thiện tư tưởng về việc xây dựng một tông phái Thiền mang đặc sắc Việt Nam đã đánh dấu bước phát triển của văn hóa dân tộc. Hệ tư tưởng giữ một vai trò định hướng quan trọng trong việc thúc đẩy văn hóa phát triển, Phật giáo Trúc Lâm với tinh thần nhập thế đã góp phần tạo lập nên nền văn hóa đời Trần hào sảng, khoan dung, tự tại, tự tôn dân tộc. Tinh thần nhập thế được tổng kết căn bản trên mấy phương diện: “Đạo Phật phụng sự cho đời sống: Đời sống tâm linh giải thoát cũng như đời sống xã hội. Hai phương diện ấy của đời sống con người cần được liên hệ với nhau và bổ túc cho nhau” (Nguyễn Lang, 2012: 308). Tinh thần nhập thế của Phật giáo đời Trần đã được Trần Nhân Tông kiến giải cặn kẽ trong trước tác Cư trần lạc đạo phú của ông.
Cư trần lạc đạo phú (Thơ văn lý Trần,1989:510) được Trần Nhân Tông viết khi chưa xuất gia, tác phẩm dài, gồm mười hội, bộc lộ, biểu đạt tư tưởng Thiền phong phú, súc tích, bằng sự am hiểu Thiền học trong tác phẩm, ông là một vị thiền sư tại gia. Bài phú là một cuộc độc thoại nội tâm suy tư về vị trí của người tu hành đứng giữa đạo và đời, thể hiện tâm thế của người tu hành tham chính qua đó khẳng định chân lý Thiền, phương thức tu tập. Mở đề, hội thứ nhất ông viết: Mình ngồi thành thị; nết dùng sơn lâm, tả thực hoàn cảnh của mình sống đạo giữa cõi nhân gian và đưa ra quan niệm khái quát về lạc đạo giữa đời: Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính, nửa ngày rồi tự tại thân tâm. Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý; thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý; biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm. Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng; liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm. Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục; nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đam. Sách Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu; kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim. Các khái niệm được đề cập trong phần mở đầu như thể tính, thâm tâm, tính sáng cách nói khác của “minh tâm kiểm tính”, “tâm là Phật, Phật là tâm”, “vô tâm, vô Phật” là một khái niệm trọng yếu của Thiền tông, cho ta biết quan niệm cư trần lạc đạo của ông đã được phát triển trên nền tảng tư tưởng Thiền Tông ra sao.
Các khái niệm này được Trần Nhân Tông làm rõ hơn ở các hội tiếp theo (cũng phải nói thêm là cách bố cục của một bài phú, đã đem đến cho tác giả khả năng phô diễn tư tưởng theo nhiều tầng lớp và do đó truyền đạt tư tưởng Thiền rõ ràng, sâu sắc). Trong bài phú, tư tưởng tu dưỡng tâm để đạt tới đốn ngộ được Trần Nhân Tông đề cập dưới nhiều sắc thái tu từ, qua phép đối ngẫu so sánh với vật chất cụ thể như châu báu, hoàng kim đến các khái niệm trừu tượng Tịnh độ, Di Đà, viên giác, nhân ngã, tham sâm, chân như, thực tướng, vô vi, làm bật lên tính sáng, lòng trong sạch như một điều kiện thiết yếu để thực hiện cư trần lạc đạo: Sách Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu; kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim (Hội 1). Miễn được lòng rồi; chẳng còn phép khác. Gìn tính sáng, tính mới hầu an; Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác. Dứt trừ nhân ngã, thời ra tướng thực kim cương; Dừng hết tham sân, mới lảu lòng mầu viên giác. Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc (Hội 2). Nếu mà cốc, tội ắt đã không; Phép học lại thông. Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo; Sửa mình học co phải chính tông (Hội 3). Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm Phật tổ tây đông; chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc (Hội 4). Như vậy, có thể thấy Trần Nhân Tông chịu ảnh hưởng trực tiếp tư tưởng thiền của tổ thứ sáu Thiền tông Huệ Năng. Theo Huệ Năng: “Phật có trong bản tính mỗi con người, nên bất cứ ai cũng có thể trở thành Phật. Hơn nữa nhân tính tự nó chính là Phật tính” con người cần phải tự khiến cho tâm mình trong sạch, ở thời khắc giác ngộ, bất cứ ai cũng có thể tức thì đạt tới cảnh giới Phật. Nhấn mạnh tu dưỡng tâm, Thiền sư Huệ Năng phê phán lối tu của Tịnh độ chỉ chú trọng niệm Phật A Di Đà mong tới miền Tịnh Độ (Kang Sung – Ryul, 2016:244-245). Tư tưởng “đốn ngộ thành Phật” của tổ Huệ Năng được ông diễn giải: Nguyền mong thân cận minh sư, quả bồ đề một đêm mà chín; Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu đàm mấy kiếp đâm bông (Hội 3)). Ông đi tới kết luận Bụt ở cong nhà; chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt; đến cốc hay chỉn Bụt là ta (Hội 5). Đây là mấu chốt của quan niệm cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông, đề cao tu tâm của tổ Huệ Năng và qua tấm gương tu đạo giữa đời của Tuệ Trung Thượng Sỹ, ông phê phán sự cố chấp trong lối tu Tiểu thừa: Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành; đấng Thượng Sĩ chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị (Hội 10).
Tuy nhiên, Tổ Huệ Năng trong Nam tông Thiền không nói đến việc đọc kinh điển Phật giáo hay những lễ thức tôn giáo phức tạp hay việc kính bái Phật Tổ. Trong tu đạo Huệ Năng chỉ nhấn mạnh con người cần phải tự khiến cho tâm mình trong sạch (Kang Sung-Ryul, 2016:245). Do vậy, để lạc đạo giữa đời, Trần Nhân Tông đưa ra biện pháp tu tâm lại có phần gần với Thiền Bắc tông – Thiền phái chủ trương học kinh điển Phật giáo và thông qua tu tập mới có thể trở thành Phật, khi cho rằng: Chỉn xá tua rèn; chớ nên tuyệt học. Lay ý thức chớ chấp trằng trằng; nén niềm vọng mựa còn xóc xóc… Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu; săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc. Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tu một sức dồi mài; đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lừa lọc. Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay; trọng Bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc (Hội 8).
Trần Nhân Tông trong khi đề cao học tập kinh điển, khuyến khích tìm minh sư học đạo, ông đồng thời đề cao vô ngôn khi tham vấn Thiền: Nhận văn giải nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ; Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo (Hội 6). Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo; rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi lọt lọc (Hội 8). Thiền tông nguyên thủy truyền thụ tư tưởng theo bí pháp “dĩ tâm truyền tâm bất lập văn tự” (từ tâm truyền đến tâm, không dựa vào văn tự) bắt nguồn từ câu chuyện “niên hoa vi tiếu” nhìn hoa mỉm cười của Ma Ha Ca Diếp (Bồ Đề Đạt Ma) – Tổ thứ nhất sáng lập Thiền tông Trung Quốc, ông là người hiểu được ẩn ý của Đức Phật Thích Ca khi ngài giơ một cành sen mà không nói một lời nào. Theo Kang Sung – Ryul (2016:234- 237) từ Bồ Đề Đạt Ma đến vị tổ thứ tư, phép truyền pháp vẫn là không dùng lời nói và chữ viết…nên việc truyền bá như thế nào không được biết rõ. Cho đến vị tổ thứ năm là Hoằng Nhẫn mới bắt đầu việc dạy dỗ đệ tử đông đảo…” và việc Hoằng Nhẫn truyền y bát cho Huệ Năng tổ thứ sáu là người giã gạo, không biết chữ, thì cuối cùng bí pháp “dĩ tâm truyền tâm bất lập văn tự” vẫn là tôn chỉ tối cao của Thiền tông. Cũng từ cách thức truyền pháp của tổ thứ năm và tổ thứ sáu của Thiền tông: truyền pháp cho đệ tử bằng kệ và việc sử dụng Thoại đầu (thiền vấn đáp) “đã củng cố thêm nguyên tắc cơ bản không dựa vào văn tự của Thiền tông”. Bản thân Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng đã sử dụng kệ, thoại đầu, thét, đánh trong truyền pháp sau khi xuống tóc, tu trên núi Yên Tử.
Trong tư tưởng rèn lòng rũ sạch tham sân giữa cõi trần của Trần Nhân Tông, còn thấp thoáng bóng dáng của Đại sư Tăng Triệu trong đốn ngộ, vong ngôn – Vị đại sư trong lúc biên dịch kinh điển thốt nhiên đề cao vong ngôn, trong lúc tu tập thốt nhiên đề cao đốn ngộ, vong ngôn dường như đối lập với việc nghiên cứu kinh điển, đốn ngộ dường như đối lập với việc tu đạo (Kang Sung-Ryul, 2016:202).
Về quan niệm tu tâm của Trần Nhân Tông, ta còn thấy ảnh hưởng từ phép tu “thiểu dục tri túc” (tiết dục tối đa và lấy thế làm đủ) của sơ tổ Thiền tông Đề Đạt Ma (Ma Ha Ca Diếp) là người tu hạnh đầu đà (lối tu loại bỏ tất cả phiền não và những tham cầu về ăn mặc ở, xây dựng pháp độ trong sạch): Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay; vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc. Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nữa thiên cung. Dầu hay mến thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác (Hội 2). Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận; ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha. Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc chằm hoặc xể; cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa (Hội 5). Và như Nguyễn Lang (1973,2012: 242) nhận xét: “Miễn được lòng rỗi, chẳng còn phép khác” chủ trương của Trúc Lâm là chủ trương đình chỉ phiền não trước tiên, phù hợp với truyền thống “ngũ đình tâm quán” của thiền học nguyên thủy”. Sau này, khi xuất gia Phật hoàng Trần Nhân Tông lấy biệt danh Trúc Lâm Đầu Đà là tuyên bố thực hành phép tu của Sơ tổ vậy.
Bao quát mọi khía cạnh của đời sống, đề cao tu tâm Trần Nhân Tông tìm sự tương thích giữa tư tưởng Nho, Đạo, Thiền trong tu luyện: Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan; hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc …Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích-ca. Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di-lặc (Hội 4). Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội; lẫy tam huyền, nông tam yếu, một cắt một ma. Cầm vốn thiếu huyền, sá đàn dấu xoang vô sinh khúc; địch chẳng có lỗ, cũng phiếm chơi xướng thái bình ca (Hội 5). Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm; ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu (Hội 6). Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo; mến đức cù, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay (Hội 7). Ông đã tiếp tục tư tưởng dung hợp Phật giáo với các tư tưởng Nho, Đạo của các bậc đi trước.
Như vậy là Trần Nhân Tông trong phép tu tâm đã phân định rất rõ ràng các tầng nấc từ thấp đến cao và cao nhất là đạt tới đốn ngộ, vong ngôn, ông đã tiếp thu Thiền học từ nhiều nguồn, trong đó tôn chỉ Thiền Nam tông là đường nét chủ đạo. Từ sự hiểu biết Thiền học sâu sắc, ông đưa ra quan điểm không phân biệt tông phái Thiền: Cơ quan tổ giáo, tuy khác nhiều đàng, chẳng cách mấy gang. Chỉn sá nói từ sau Mã Tổ; ắt đã quên thuở trước Tiêu Hoàng. Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi; quách nhiên bất thức, tai ngu mãng ắt còn vang (Hội 9). Đây là tâm điểm trong tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông.
Ở giữa cõi trần thực hành đạo, Trần Nhân Tông vừa là một thiền sư vừa là nhà chính trị tham chính. Từ vị trí nhà chính trị, sự kết nối nhân tính với Phật tính “Phật có trong bản tính mỗi con người, nhân tính cũng là Phật tính”, đề cao tu dưỡng đạo đức trong đời sống nhân sinh của ông đã tạo nên một đời sống văn hóa gắn kết xã hội hơn bao giờ hết, được thử thách và bộc lộ trong chiến tranh vệ quốc mà ông là lãnh tụ tối cao, đã thiết lập một triều đình đồng lòng, một nhân dân đồng lòng, đánh tan thế giặc mạnh hơn gấp bội, bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. Trần Nhân Tông đã thực hành vẹn toàn phương châm sống đạo giữa đời được ông đúc kết qua bốn câu kệ tổng kết bài phú:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
Tuy nhiên, bên cạnh Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân tông còn có Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca:
Cảnh tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm.
Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển,
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm.
Một bên là sự khẳng định tinh thần nhập thế ở giữa cõi trần vui với đạo tùy duyên, một bên là niềm vui tu hành thoát tục. Ở đây, chỉ có thể tìm thấy sự thống nhất tư tưởng giữa hai tác phẩm qua sự nghiệp Trần Nhân Tông để lại: Đứng ở vị trí người đứng đầu đất nước, cai trị dân chúng, vừa đứng ở vị trí nhà tư tưởng thiền học với trí tuệ mẫn tiệp, tiếp thu tinh hoa Thiền học uyển chuyển, đưa ra quan niệm về Thiền, phương pháp tu, vị trí của người tu hành giữa đạo và đời; Việc quả quyết xuất gia, trở thành tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm, ông đã xúc tiến việc hiện thực hóa tư tưởng của mình về một giáo hội thống nhất của các tông phái Thiền của Việt Nam. Bằng sự đi đỗ của mình qua hai tác phẩm, Phật Hoàng đã hướng tới hai đối tượng là các thần dân và các đồ đệ của mình. Tinh thần nhập thế, tư tưởng thống nhất các tông phái của ông đã tạo lập một cơ hội lớn phát triển Phật giáo, đưa Thiền tông tới gần nhân dân hơn bao giờ hết. Thiền phái Trúc Lâm do ông sáng lập đã kế tục các bậc tiền bối, mở ra một con đường lớn trong tư tưởng Phật giáo, dẫn dắt văn hóa Đại Việt phát triển mang đậm dấu ấn bản sắc dân tộc.
*
* *
Văn học là tấm gương phản chiếu văn hóa, là “sự tự ý thức về văn hóa” của dân tộc. Hệ tư tưởng Phật giáo và các trí thức Phật giáo đại diện cho hệ tư tưởng đó trở thành những đại diện xuất sắc của văn hóa dân tộc. Các tác phẩm văn học Phật giáo là một trong những thành tựu mà các thiền sư đã cống hiến cho văn hóa dân tộc. Văn học Phật giáo thời Tự chủ đã mở đầu cho sự phát triển của văn học dân tộc, đã phản ánh sự tiếp biến văn hóa của văn học thành văn trên nền văn hóa dân gian và tôn giáo. Văn học Phật giáo đời Trần qua các tác phẩm của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đánh dấu sự trưởng thành của văn hóa dân tộc lên một cấp độ mới về hệ tư tưởng văn hóa (Phật giáo) và về chữ viết (chữ nôm), thể loại văn học.
Văn học Phật giáo ra đời trên nền tảng văn hóa dân tộc, trong quá trình phát triển, dòng văn học này dưới tác động và ảnh hưởng của hệ tư tưởng Phật giáo lại là nguồn nuôi dưỡng, bồi đắp, định hướng cho văn hóa dân tộc phát triển rực rỡ được định danh thời đại Lý – Trần trong lịch sử.
Tài liệu tham khảo
- Đào Duy Anh: Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975,tr23, 25.
- Kang Sung-Ryun, Lịch sử triết học Phương Đông viết cho thanh thiếu niên, Nxb. Thế giới & Nhà sách Nhã Nam, 2016, tr 202, 234, 237, 244, 245
- Nguyễn Lang Việt Nam Phật giáo sử luận. Nxb Phương Đông 2012
- Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần Diện mạo và đặc điểm, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
- 5. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam (hình thức và thể loại), Khoa học Xã hội, H 1971, tr47.
- Nguyễn Thanh Phong, Mối quan hệ giữa tản văn, phú và biền văn trong hệ thống thể loại văn học Trung Quốc, by phongtauhuin Nghiên cứu khoa học, Nhịp cầu Đài Loan, Văn học Trung Quốc, 11/4/2012.
- Bùi Duy Tân, Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam thời Trung đại: tiếp nhận- cách tân-sáng tạo. T/c Văn học Số 1-1992 tr9.
- Thơ văn lý Trần. Viện Văn học, Nxb. Khoa học Xã hội, H.1977 tr200, 204, 209, 224, 211, 218, 528.
- Thơ văn lý Trần. Viện Văn học, Nxb. Khoa học Xã hội, H . 1989 tr510
- Nguyễn Trãi toàn tập, UBKHXH, 1982, tr16
- Đỗ Thị Minh Thúy Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1997.
- Thích Thanh Từ, Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tái bản lần thứ ba 2016.
- Nguyễn Kim Sơn, Trần Nhân Tông thiền lạc và thi hứng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017
- Trần Quốc Vượng chủ biên, Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1996, tr204.