Trích từ sách “Địa chí Bỉm Sơn”
- Miền đất Bỉm Sơn – địa linh qua huyền thoại và hiện thực
Theo quan niệm của người xưa, “thủy tụ thì sơn dừng, sơn dừng thì sinh khí tụ”. Xét từ hình thế tự nhiên, vùng đất Bỉm Sơn là nơi hội tụ được sinh khí của trời đất. Chính vì như thế, ngay từ xa xưa, con người tiền sử đã chọn nơi đây làm một nơi quần cư, từ đó khởi đầu cho lịch sử lâu dài, đầy thăng trầm nhưng thật hào hùng, đầy huyển ảo mà vô cùng hiện thực của vùng đất Bỉm Sơn.
Nhìn bằng con mắt huyền sử và folklore (văn hóa dân gian), mảnh đất nơi đây đã được tạo dựng bởi những con người khổng lồ – ông Đùng, bà Đùng – hiện thân của những sức mạnh siêu nhiên. Phải chăng, cũng vì thế, mà chất “khổng lồ” đã thấm sâu và thấm lâu vào mảnh đất và con người nơi đây, làm cho họ dù có phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn, thách thức, vẫn “vươn mình đứng dậy sáng lòa”! Tìm tòi và suy ngẫm về đất và người mà không lắng sâu để cảm nhận những hiện thực lịch sử lấp lánh qua những huyền tích, nhất là về sự khởi đầu của mảnh đất và con người nơi đó, thì chắc chắn sẽ bỏ sót rất nhiều. Đó có thể chỉ là tên gọi của một ngọn núi, một con sông, hay một làng quê, nhưng lại là những vết tích vô cùng quan trọng lưu giữ, bảo tồn những ký ức lịch sử. Ở Bỉm Sơn không nhiều, nhưng cũng không ít, mà có lẽ là vừa đủ những vết tích lưu giữ ký ức lịch sử như thế: Ông Đùng, bà Đùng, Kẻ Gạo, Trạch Lầm, v.v.. Đủ, bởi nó cho phép ta tìm được sợi dây kết nối với cội nguồn, quá khứ và cả mạch nguồn cho sự sống của hiện tại và sức bật trong tương lai của mảnh đất mang chất “khổng lồ” này!
Không chỉ còn một lịch sử lâu đời, vùng đất mang tên gọi Bỉm Sơn – bản thân cái tên cũng đầy chất huyền ảo của hiện thực bị phủ bụi mờ bởi những biến thiên lịch sử và sự biến đổi về ngôn ngữ, phương ngữ – ngay từ rất sớm đã định hình một cấu trúc đời sống xã hội khá hoàn chỉnh. Cũng lại là con mắt huyền sử và folklore cho phép ta nhận định như thế. Đây là mảnh đất có cả Ông khổng lồ và Bà khổng lồ; có chỗ ở trên trần cho người sống, chỗ ở dưới âm cho người chết và cả chỗ ở trên trời cho người tiên; có đủ những nghề cơ bản từ làng trồng trọt mang đến thóc gạo – cái ăn, đến làng đan dệt tạo ra vải, ra gấm – cái mặc; từ hoạt động sản xuất trên cạn, đến hoạt động sản xuất dưới nước (với tấm lưới), v.v.. Một xã hội lâu đời và hoàn chỉnh như thế đủ cho thấy sinh khí của vùng đất Bỉm Sơn này!
Bổ sung và góp phần minh chứng thêm cho huyền sử và folklore là các chứng tích lịch sử. Đáng chú ý nhất chính là việc phát hiện ra trống đồng ở Bỉm Sơn. Trống đồng vừa là trống lệnh, vừa là quân khí, vừa là nhạc khí, vừa là minh khí. Sách Luận ngữ có câu: “Lễ, nhạc, chinh phạt tự Thiên tử xuất”, có nghĩa là “Tế lễ, âm nhạc và việc quân sự chinh phạt đều từ Thiên tử mà ra”. Trống đồng vừa là phương tiện phục vụ Tế lễ, vừa là nhạc cụ, vừa là quân lệnh. Đất có trống đồng là đất thiêng, là thủ phủ của cả vùng. Có vẻ lạ nhiều địa bàn xung quanh Bỉm Sơn phát hiện nhiều cổ vật phản ánh đa dạng các mặt của đời sống dân cư, nhưng không phải ở đâu cũng phát hiện ra trống đồng; còn ở Bỉm Sơn thì lại phát hiện ra trống đồng, dù những di vật đời sống thường nhật lại không nhiều. Lạ, nhưng có lẽ không lạ! Điều đó chỉ có nghĩa, điểm khác biệt của vùng đất Bỉm Sơn so với nhiều vùng đất xung quanh là ở chỗ: Đây là trung tâm, thủ lĩnh của cả vùng rộng lớn.
Vì là vùng đất quan trọng như thế, nên người Hán mới đặt trị sở huyện Dư Phát kề cận đất Bỉm để dễ bề cai quản. Việc phát hiện quần thể hầm mộ có niên đại từ thời Tây Hán, đông Hán sang tới thời Tùy, Đường ở đồi Trạch Lâm và mở rộng ra các vùng lân cận đã chứng minh vùng đất Bỉm Sơn từng là nơi đô hội, điểm cư trú tập trung của người Việt và người Hán, trong đó có những người thuộc tầng lớp quý tộc, ở đất Cửu Chân.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà thời nào trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam cũng để lại dấu tích đặt biệt trên vùng đất Bỉm Sơn. Ví dụ như thời Trần, đền Xuân Nội, Đông Thôn cùng các di tích trên các làng xã kề cận thuộc huyện Hà Trung, Nga Sơn, nơi thờ Trần Hưng Đạo cho thấy, vùng Bỉm Sơn từng là tiền tiêu, nơi ẩn binh chiến lược của quân dân nhà Trần. Chiến khu có không gian rộng từ cửa biển Thần Phù (Nga Sơn) qua Bỉm Sơn, ngược lên Thạch Thành, Cẩm Thủy chính là hậu cứ chờ khi thời cơ đến vua Trần Nhân Tông đã phát động mở cuộc tổng tiến công về Thăng Long tiêu diệt giặc Mông – Nguyên, đưa cuộc kháng chiến vệ quốc lần thứ hai đến đại thắng. Hay tiêu biểu như thời Tây Sơn, Bỉm Sơn cũng từng là đại bản doanh của vua Quang Trung khi Người kéo quân từ Kinh đô Huế ra Bắc đại phá quân xâm lược nhà Thanh cuối năm 1788, đầu năm 1789. Đường Thiên Lý, động Quang Trung, miếu Trà Sơn, đến Bà Quán, đình làng Gạo vẫn ghi đậm dấu tích của người “Anh hùng áo vải, cờ đào” năm ấy. Đền thờ Tướng quân Ngô Văn Sở trên sườn núi Ông lại khắc ghi dấu ấn về trận lui quân chiến lược của Tướng quân Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm, v.v., về xây dựng hậu cứ chờ lệnh vua Quang Trung trên dải Tam Điệp trước khi tiến quân ra Bắc. Thậm chí, đất Hà Trung – Bỉm Sơn còn là đất phát tích của nhà Nguyễn, được nhà Nguyễn gọi là “Quý hương”.
Càng không ngẫu nhiên, khi thời thực dân, người Pháp đã chọn vùng đất Bỉm Sơn để đặt những cơ sở quan trọng, cả về chính trị, quân sự và kinh tế. Những dấu tích lịch sử của ga Bỉm, đồn Bỉm, v.v., vẫn đang còn đó với thời gian.
Từ khi hòa bình lập lại, đến ngày nước nhà thống nhất và cho đến thời kỳ Đổi mới hiện nay, vùng đất Bỉm Sơn cũng là nơi đặt nhiều cơ quan quan trọng của đất nước và bản thân vùng đất Bỉm Sơn đang từng bước khẳng định mình là một “yết hầu” quan trọng trên trục giao thông – kinh tế Bắc – Trung – Nam.
Có một điều đặc biệt là, vùng đất linh thiêng Bỉm Sơn không chỉ có vị trí chiến lược quan trọng; không chỉ là nơi dừng chân, nơi phát tích của các bậc đế vương; mà còn là nơi thắng cảnh trần gian khơi gợi cảm hứng thi ca cho bao tao nhân mặc khách. Bao áng thơ văn tuyệt tác về vùng đất Bỉm Sơn đã được viết nên, thậm chí tạc sâu vào vách đá, vào lịch sử. Người ta thường nói, trong con người Bỉm Sơn vừa có chất anh hùng, vừa có chất nghệ sĩ, thì điều đó một phần có lẽ được hun đúc bởi chính chất “anh hùng” và “nghệ sĩ” trong cảnh sắc thiên nhiên Bỉm Sơn. Đấy cũng là chất “linh” của miền đất này.
Với vị thế đặc biệt của một vùng địa linh như thế, Bỉm Sơn quả thật có rất nhiều năng lượng để có thể phát triển mạnh trong tương lai.
- Con người Bỉm Sơn – hình ảnh hội tụ và lan tỏa đa dạng văn hóa
Bỉm Sơn từng là nơi đô hội từ hơn hai nghìn năm về trước, nhưng miền đất địa đầu “khúc ruột miền Trung” cũng là nơi hứng chịu nhiều tác động từ những cung bậc thăng trầm của lịch sử. Nếu trong dân gian, làng xã không tàng lưu những cuốn thư tịch cổ thì người đương hiện đâu biết rằng, cư dân Bỉm Sơn từng nhiều phen phiêu tán trước binh lửa ngoại xâm hay nội chiến “nồi da nấu thịt” tương tàn. Cũng qua thư tịch, bi ký (di sản tư liệu cổ) mà ta biết được nguồn gốc các dòng họ đến khai sơn phá thạch lạc nghiệp trên đất Bỉm Sơn. Thời Trần, Bỉm Sơn nhập cư dân từ xứ Nghệ qua việc gắng gỏi lập làng của Tướng quân Đặng Quang trên đất Cẩm La. Thời Lê sơ, Bỉm Sơn nhận thêm luồng cư dân đến từ làng Điền Lư của dòng họ Vũ (sau đổi thành Vũ Kim, Vũ Đình) hay dòng họ Tống vốn người Bắc quốc chạy loạn đến định cư ở Đoài Thôn (làng Gạo). Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, dòng họ Nguyễn vốn là dân vạn chài làm nghề sông nước đã lên bờ sông Hoạt định cư rồi lập làng lạc nghiệp ở Đa Nam (Đìa Thôn), v.v.. Thời kỳ sau hòa bình, thực hiện chính sách dãn dân, xây dựng vùng kinh tế mới, Bỉm Sơn lại tiếp nhận nhiều cư dân từ Hoằng Hóa, Nga Sơn. Đặc biệt, khi các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng, Bỉm Sơn trở thành đô thị công nghiệp thì miền đất này đã tiếp nhận nhiều công dân đến từ mọi miền Tổ quốc.
Con người tạo sinh ra văn hóa, văn hóa hun đúc nên con người. Sự hội tụ năng động các luồng cư dân làm cho văn hóa Bỉm Sơn từ lâu đã đa sắc màu. Nhưng do ảnh hưởng bởi vị trí địa lý nên sắc thái văn hóa Bỉm Sơn có sự hòa trộn, giao thoa cơ bản của văn hóa châu thổ sông Hồng và địa đầu xứ Thanh, nhưng nhìn ở chiều sâu, sắc thái văn hóa Bắc Bộ vẫn nổi trội. Phong tục, tập quán trong đời sống thường nhật xưa nay với nếp ăn, nết ở, tập tục, nghi lễ, hôn nhân, tang tế, v.v., của người Bỉm Sơn thật sự là những giá trị văn hóa mà chúng ta cần duy trì, bảo tồn. Hương ước của làng Nghĩa Môn (phường Lam Sơn), làng Trạch Lâm (xã Quang Trung) xưa, làng Gạo, v.v., đều răn dạy những đạo lý ở đời, làm người, đối nhân, xử thế cực kỳ tốt đẹp, như: “Phàm là người cần phải có lễ phép, luân lý, trong nhà phải có hiếu với cha mẹ, hòa thuận với anh em, ra ngoài phải biết kính trên nhường dưới, biết xót thương người cô quả, biết thương yêu trẻ mồ côi, như thế mới hợp lễ phép”; “Phàm là người, cần phải có lễ phép, luân lý, trong nhà phải có hiếu với cha mẹ, hòa thuận với anh em, ra ngoài phải biết trên kính dưới nhường, biết xót thương kẻ cô quả, biết thương yêu trẻ mồ côi, như thế mới hợp lễ phép…”. Đó thật sự là những tài nguyên vô hình nhưng rất quý giá mà các gia đình, dòng họ và các cấp chính quyền địa phương cần trân trọng gìn giữ, truyền dạy cho thế hệ trẻ, để vừa bảo tồn được mỹ tục, thuần phong, vừa xây dựng được xã hội mới, con người mới Bỉm Sơn trẻ trung, năng động, hiện đại, đồng thời đậm đà truyền thống quê hương, đất nước. Chính giá trị truyền thống với nhiều nét đặc trưng độc đáo đã nâng đỡ tâm hồn, bồi dưỡng đạo đức, vun đắp nhân cách, trau dồi tài năng cho con người xứ Bỉm, để họ tự tin và bản lĩnh đảm đương vai trò của người chủ quê hương, đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Có thể thấy, cư dân Bỉm Sơn hiện vẫn bao gồm hai nhóm cơ bản: Cư dân nông nghiệp và cư dân đô thị. Cư dân nông nghiệp hầu hết là cư dân gốc, định cư ở các làng xã cổ vùng chiêm trũng như: Làng Cẩm La, Trạch Lâm (Lầm), Biển Sơn (Bỉm) thuộc xã Quang Trung; Làng Cổ Đam (Kẻ Đam), Nghĩa Môn (Cửa Đồi) phường Lam Sơn; Làng Gạo (Đoài Thôn), Điền Lư, Đa Nam, Xuân Nội, Đông Thôn thuộc phường Đông Sơn. Các làng xã ngày càng quan tâm đến vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Cũng do đó mà vốn di sản văn hóa dân tộc được chấn hưng, khởi sắc. Những nét đẹp trong văn hóa dòng họ, làng xã được khơi dậy, phát huy; những di tích lịch sử văn hóa được quan tâm điều tra khảo sát phục hồi, tôn tạo. Việc phục hồi, tôn tạo chùa Khánh Quang (xã Quang Trung), trùng tu chống xuống cấp đình làng Gạo, tôn tạo đền Bát Hải Long Vương (phường Phú Sơn) hay lễ hội đền Sòng Sơn, đền Chín Giếng, đền Cây Vải, v.v., với nghi thức long trọng, quy mô to lớn, mang đậm chất văn hóa, ý nghĩa giáo dục, thu hút đông đảo du khách tham dự là những thành công đáng ghi nhận trong sự nghiệp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của Đảng và chính quyền và nhân dân Bỉm Sơn trong thời hiện đại.
Cư dân đô thị ở Bỉm Sơn có số lượng trội hơn nhiều. Họ quần tụ nơi xứ Bỉm từ nhiều luồng, nhiều đợt, đông nhất vẫn là các thế hệ công nhân, viên chức các nhà máy, xí nghiệp từ mọi miền tổ quốc về đây chung tay xây dựng thị xã Bỉm Sơn. Đến Bỉm Sơn trên tinh thần “nhập gia tùy tục”, nhưng trong mỗi gia đình họ vẫn lưu giữ bản sắc văn hóa nơi họ sinh ra. Qua quá trình giao lưu với bè bạn, làng xóm láng giềng, khu phố này với khu phố khác, những nét đẹp văn hóa được gạn lọc khơi trong giao hòa với văn hóa bản địa, làm giàu có thêm sắc thái văn hóa bản địa.
Ngoài những sắc thái có nhiều điểm chung với văn hóa vùng châu thổ sông Hồng, văn hóa Bỉm Sơn vẫn có sắc thái riêng của người xứ Bỉm. Điển hình dễ nhận chân được thể hiện qua các công trình kiến trúc tâm linh, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người có công và đặc biệt tín ngưỡng thờ Mẫu – Mẹ, đấng sinh thành là những sắc thái văn hóa mang đậm hồn dân tộc.
Người dân làng xã xứ Bỉm luôn sẵn lòng tôn kính tổ tiên, các bậc sinh thành ra lớp lớp thế hệ con cháu để kế tiếp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Ý thức nhớ về nguồn cội được thể hiện qua hệ thống từ đường phụng thờ tiên tổ các dòng họ. Trong từng thôn/làng ở miền quê Bỉm Sơn, xuất hiện rất nhiều ngôi từ đường của các dòng họ. Công trình không có quy mô đồ sộ như từ đường dòng họ miền châu thổ sông Hồng hay cố đô xứ Huế, xứ Quảng, v.v., nhưng công trình nào cũng xinh xắn, gọn gàng, thể hiện tâm thành của các thế hệ con cháu với tổ tiên. Những dòng họ lớn, cư trú lâu đời trên đất Bỉm Sơn xây dựng từ đường từ xa xưa như họ Vũ Đình, Vũ Văn (Điền Lư), họ Nguyễn (Đa Nam), họ Tống Đoài Thôn, họ Lại, họ Phạm (Xuân Nội), v.v.. Nhưng, do vật đổi sao dời, thăng trầm thế sự, nên nhiều ngôi từ đường đã bị xuống cấp. Tuy nhiên, gần đây, những ngôi từ đường này đều đã được phục hồi, tôn tạo khang trang. Một số dòng họ khác tuy mới định cư, hội nhập trên đất Bỉm Sơn như họ Mai, họ Vũ, họ Phùng, v.v., cũng theo đạo lý uống nước nhớ nguồn, vấn tổ tìm tông mà gom góp sức người sức của xây dựng ngôi từ đường thành kính tôn thờ tiên tổ.
Đến làng/xã nào ở Bỉm Sơn các cụ cao niên cũng tự hào kể về ngôi đình làng thờ Thành hoàng, người có công khai khẩn lập làng. Làng Cẩm La thờ thần Đặng Quang có công lập làng từ thế kỷ XIV và các vị nữ thần có công giúp dân truyền nghề dệt chiếu, gấm. Làng Đông Thôn, Đoài Thôn (làng Gạo) thờ Tô Hiến Thành có công phát triển làng xã và các danh nhân họ Tống truyền đời làm quan và bỏ công vun vén mở mang thôn làng. Làng Nghĩa Môn xây cả đình, đền, miếu và khu lăng mộ thờ Tướng quân Nguyễn Thiện, người có công quy tụ dân cư nhiều dòng họ phiêu tán về lạc nghiệp tại xứ Cửa Đồi/Cửa Làng nay là làng Nghĩa Môn, v.v.. Biết ơn tổ nghề, biết ơn người có công, đó là nét đẹp trong văn hóa của con người Bỉm Sơn, khiến ai đã từng đến thăm mảnh đất này dù chỉ một lần cũng khó có thể quên.
Đặc biệt, các làng xã ở Bỉm Sơn rất trọng đạo Mẫu hay tín ngưỡng thờ Tứ phủ. Ngoài hai ngôi đền là nổi tiếng xứ Thanh là đền Sòng Sơn, đền Chín Giếng, thì hầu như thôn làng nào cũng có đền, miếu thờ Mẫu cùng Tứ phủ công đồng. Làng Cẩm La có đền thờ chúa Bà, tức bà Chúa có công dạy dân dệt chiếu, gấm. Làng Nghĩa Môn có đền Cây Vải (Trà Sơn miếu) thờ Ngọc Thủy Tinh Công chúa, Đào Hoa Công chúa, Bạch Hoa Công chúa và phối thờ hai vị Phúc thần là Tướng quân Nguyễn Thiện (thời Lê sơ) cùng Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ. Ở xóm Trường Sơn có đền Bà Quán là nơi thờ bà Trần Thị Tuyên, cô Trần Thị Tu (tên chính là Mai). Hai bà là hiện thân của Tiên nữ giáng trần giúp quân dân ta đánh giặc phương Bắc. Khi các bà mất đã được các triều đại phong kiến phong Thần và cho dân địa phương cất dựng miếu đền thờ phụng. Nhân dân suy tôn là Đương cảnh phúc thần. Trong cung cấm còn lưu đôi câu đối cổ, truyền rằng do vua Quang Trung ban tặng sau khi đại thắng 29 vạn quân Thanh.
Ân ba mặc tướng thiên tiên nữ
Sắc mệnh bao phong thế phúc thần.
Nghĩa là:
Ơn rộng lặng thầm tiên nữ hiện
Sắc thần phong tặng cõi trần gian.
Ngoài ra còn có miếu Đồng Găng, đền thờ Hai Cô ở phường Phú Sơn cũng thờ Đào Hoa Công chúa, Bạch Hoa Công chúa, v.v..
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người có công, các vị Thánh Mẫu đã ngấm sâu trong đời sống dân gian xứ Bỉm. Nó như mạch nguồn dung dưỡng các thế hệ người con xứ Bỉm luôn hướng về nguồn cội để duy trì phát huy đạo lý uống nước nhớ nguồn quý báu được lưu truyền từ muôn đời cha ông thủa trước.
Như vậy, nhìn từ con người đến văn hóa Bỉm Sơn, ta có thể thấy hai chiều kích: Chiều kích thứ nhất là sự hội tụ của những con người đến từ nhiều vùng miền khác nhau về Bỉm Sơn, và đi cùng với đó, là sự hội tụ các giá trị văn hóa đa vùng miền ở Bỉm Sơn, với tính trội của văn hóa đồng bằng Bắc Bộ. Điều đó có thể thấy rõ trong văn hóa ăn, văn hóa mặc, văn hóa ở, văn hóa giao tiếp, v.v., của con người Bỉm Sơn, cũng như trong các công trình văn hóa vật thể nơi này. Chiều kích thứ hai là sự lan tỏa, trong đó, con người Bỉm Sơn thông qua không gian sống mở rộng từ gia đình, đến dòng họ, rồi đến làng nước, cũng đã kiến tạo nên những không gian văn hóa giao thoa, chồng xếp lên nhau, thẩm thấu vào nhau, trong đó tính chất Mẫu rất đậm đặc. Hai chiều kích đó làm cho văn hóa Bỉm Sơn vừa lạ mà vừa quen, vừa phổ quát mà vừa đặc thù. Đúng là đất linh thiêng sinh con người tài hoa, hào kiệt, rồi từ đó mà sinh ra các giá trị văn hóa độc đáo, đặc sắc, để rồi văn hóa quay trở lại hun đúc tâm hồn con người, làm thiêng hóa vùng đất. Đó là một diện mạo không dễ thấy lại ở nhiều vùng đất khác.
- Bỉm Sơn – mảnh đất và con người trẻ trung, năng động
Sinh ra và phát triển từ lịch sử hàng nghìn năm linh thiêng và cổ kính của vùng đất Bỉm Sơn, Thị xã Bỉm Sơn tràn đầy sức trẻ và sự năng động.
Đến hiện đại từ truyền thống, Thị xã Bỉm Sơn mang trong mình tài nguyên được tích tụ, vun bồi từ thuở Ông khổng lồ – Bà khổng lồ mở đất. Nhiều nguồn lực trong đó đã được phát hiện và phát huy. Nhưng chắc chắn, còn nhiều giá trị vật chất và tinh thần còn đang tiềm ẩn, sẽ tiếp tục cần được đi sâu nghiên cứu, khám phá, khai thác.
Nhưng không chỉ mang trong mình sức mạnh của truyền thống, được kiến tạo bởi bao thế hệ tổ tiên, mảnh đất và con người Bỉm Sơn ngày nay còn mang trong mình sức mạnh của 40 năm xây dựng và trưởng thành.
Chúng ta nhìn thấy sức mạnh chính trị của cả hệ thống chính trị Bỉm Sơn dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, với các thế hệ kế tiếp nhau, từ những người được tôi rèn trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc hào hùng, đến những người sinh ra và trưởng thành cùng với quá trình Đổi mới đầy kỳ tích của đất nước. Một tổ chức Đảng chân chính cách mạng – như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một hệ thống chính trị vững vàng đang không ngừng được củng cổ và đổi mới, với công tác quốc phòng – an ninh được tăng cường và có hiệu quả cao, thật sự là trụ cột, là đầu tàu mạnh mẽ và năng động giúp Thị xã Bỉm Sơn “kế vãng, khai lai” – kế thừa truyền thống, mở ra tương lai sán lạn.
Chúng ta nhìn thấy sức mạnh kinh tế của Bỉm Sơn – hạt nhân vùng kinh tế động lực phía Bắc tỉnh Thanh Hóa. 40 năm xây dựng và phát triển, với tiềm năng to lớn và sự phát triển mạnh mẽ của các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nông – lâm – thủy sản, nhất là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng bước sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu đã tạo nội lực kinh tế cho Bỉm Sơn. Đội ngũ doanh nhân ngày càng đông đảo và tài năng cùng với hệ thống các cơ sở sản xuất, kinh doanh năng động đang thực sự là một lực lượng xung kích trong phát triển kinh tế của địa phương. Hệ thống các đơn vị tài chính đảm bảo dòng tiền – huyết mạch của nền kinh tế – đang từng bước hoàn thiện, góp phần quan trọng huy động, điều tiết các nguồn lực tài chính khác nhau, giúp cơ thể nền kinh tế Bỉm Sơn hoạt động lành mạnh. Trong những năm tới, với sự quan tâm của Tỉnh và Trung ương, đặc biệt là với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bỉm Sơn, chắc chắn rằng, Bỉm Sơn sẽ vươn lên mạnh mẽ, trở thành một trung tâm kinh tế ở cửa ngõ nối liền Bắc và Trung Bộ.
Chúng ta nhìn thấy sức mạnh văn hóa – xã hội của một địa phương đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng hiện đại, nhưng đã, đang và sẽ ngày càng biết trân trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống. Hệ thống giáo dục ở Bỉm Sơn ngày càng được nâng cao cả về quy mô và chất lượng giáo dục – đào tạo, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo năng lực, bồi dưỡng nhân tài cho địa phương. Tỷ lệ rất cao người lao động đã qua đào tạo ở Bỉm Sơn là một thành công thể hiện tầm nhìn của lãnh đạo và chính nhân dân địa phương. Hệ thống y tế ngày càng hiện đại và chuyên nghiệp cùng với sự phát triển của các lĩnh vực thể thao, văn hóa – văn nghệ, v.v., đã góp phần xây dựng con người Bỉm Sơn phát triển toàn diện. Tuy chưa có một nghiên cứu đầy đủ, nhưng chắc chắn, chỉ số phát triển con người của Bỉm Sơn thuộc loại cao so với nhiều địa phương khác trong cả nước. Hệ thống bưu chính viễn thông cùng với định hướng phát triển công nghệ thông tin trong thời đại công nghiệp 4.0 đang góp phần kết nối Bỉm Sơn với cả nước và quốc tế. Tất cả các lĩnh vực đó đang làm cho đời sống văn hóa – xã hội của thị xã Bỉm Sơn khởi sắc nhang chóng.
Tất nhiên, bức tranh Bỉm Sơn thời hiện đại qua góc nhìn Địa chí không phải toàn là màu hồng. Công việc biên soạn Địa chí – kiểm đếm tài nguyên địa phương trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực lịch sử – văn hóa cho thấy: Nhiều tài nguyên lịch sử – văn hóa còn chưa được phát hiện đầy đủ; không ít di tích lịch sử – văn hóa chưa được nhận thức đầy đủ về giá trị và có biện pháp bảo tồn, tu tạo thích đáng; không ít giá trị văn hóa truyền thống đang bị mai một hoặc biến dạng trước sức ép của quá trình đô thị hóa – hiện đại hóa; vị thế địa tự nhiên với tầm quan trọng đặc biệt – yết hầu Nam Bắc chưa thực sự được phát huy, mang lại hiệu quả toàn diện về kinh tế – xã hội; v.v.. Điều đó cũng cho thấy, việc biên soạn xong Địa chỉ Bỉm Sơn không phải là sự kết thúc, mà là sự khởi đầu. Là những người làm khoa học, chúng tôi mong muốn lãnh đạo địa phương tiếp tục huy động các nhà khoa học từ nhiều chuyên ngành khác nhau, tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu, từ đó đưa ra những tư vấn chính sách cụ thể, thiết thực giúp địa phương khai thác và phát huy có hiệu quả các nguồn lực hiện có, mở ra các nguồn lực mới, đồng thời khắc phục, giải quyết những vấn đề đang tồn tại. Chúng tôi tin chắc rằng, mảnh đất nhỏ nhưng được tạo nên bởi những người khổng lồ, sẽ vươn mình trở thành khổng lồ trong thời hiện đại, như câu kết trong bài hát văn về Công chúa Liễu Hạnh tại đền Sòng:
“… Sự phi thường mới hay từ đấy
Khắp gần xa đều thấy uy linh…”