PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Ngọc – Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Văn Thị Thanh Bình – Đại học Quốc gia Hà Nội
- Tổng quan vấn đề nghiên cứu
- Các công trình nghiên cứu trong nước
Nhóm các công trình nghiên cứu chung về tôn giáo
Hoạt động tôn giáo của thanh niên nằm trong bối cảnh chung về đời sống tôn giáo Việt Nam. Những công trình này đã đưa lại bức tranh tổng quát về đời sống tôn giáo tại Việt Nam hiện nay, một số công trình chỉ ra được những vấn đề đặt ra cũng như xu hướng phát triển của tôn giáo trong những năm tiếp theo. Cụ thể có, Một số vấn đề cấp bách về tôn giáo hiện nay (2005), Đề tài độc lập cấp Nhà nước. Chủ nhiệm: GS.TS. Đỗ Quang Hưng (Viện Nghiên cứu Tôn giáo). Đề cập đến hiện trạng các tôn giáo ở Việt Nam. Đề tài cũng đã đưa ra một số kiến nghị và giải pháp. Những vấn đề cấp bách về tôn giáo ở các vùng dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay (2004), nhiệm vụ cấp Bộ. Chủ nhiệm: GS.TS. Đỗ Quang Hưng (Viện Nghiên cứu Tôn giáo). Nghiên cứu những vấn đề nổi lên trong việc truyền bá phát triển đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Xu hướng phát triển của tôn giáo hiện nay ở nước ta và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý, kỷ yếu đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước (2000-2002), Học viện CTQG Hồ Chí Minh chủ trì, Chủ nhiệm: GS.TS. Lê Hữu Nghĩa. Về đề tài cấp Viện đáng lưu ý là đề tài: Tình hình thời sự tôn giáo Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2013 của Viện Nghiên cứu Tôn giáo. Đây là công trình tổng hợp những sự kiện tôn giáo diễn ra trong năm. Công trình cung cấp một cái nhìn có tính tổng quát về các vấn đề tôn giáo nóng bỏng hay những vấn đề được đông đảo người dân quan tâm. Bức tranh tôn giáo qua các công trình này được trình bày khá sinh động và sát thực với thực tiễn tôn giáo Việt Nam. Những kiến nghị, giải pháp của các công trình đều hướng đến làm thế nào để tôn giáo phát triển theo chiều hướng đồng hành cùng dân tộc. Tuy nhiên vấn đề tôn giáo theo nhóm tuổi chưa được chú trọng nên chưa có được sự nhận diện đời sống tôn giáo của thanh niên trong bức tranh tổng thể đời sống tôn giáo nói chung.
Nhóm nghiên cứu về vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay được nhiều tác giả bàn đến từ khía cạnh đạo đức, nhận thức… Nhóm nghiên cứu về vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay được nhiều tác giả bàn đến từ khía cạnh đạo đức, nhận thức…
Nhiều công trình đã chỉ ra những giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống của các tôn giáo phù hợp với giá trị của thời đại mới cần thiết phải được phát huy trong công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam hiện nay. Những giá trị tích cực đó thể hiện trong giáo lý, giáo luật, phương pháp tu tập của các tôn giáo đồng thời từ nhiều chiều cạnh khác nhau đều có những đóng góp tích cực vào việc xây dựng và củng cố niềm tin xã hội. Trần Ngọc Sơn trong bài Đạo đức xã hội và đạo đức tôn giáo những điểm tương đồng và khác biệt, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 12/2012 đã chỉ ra rằng trong những năm gần đây, quá trình phát triển kinh tế thị trường cùng với sự đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, không ít giá trị đạo đức xã hội bị xói mòn suy giảm nghiêm trọng biểu hiện ở chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, tệ nạn tham nhũng, buôn lậu đang ngày càng phát triển… Những điều này đang từng bước làm suy giảm niềm tin xã hội của người dân. Tác giả cũng đã chỉ ra được những yếu tố tích cực của đạo đức tôn giáo. Đồng thời với sự so sánh những điểm tương đồng và khác biệt của đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội, tác giả đã nêu bật được ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo trong việc hình thành các chuẩn mực xã hội và quá trình khắc phục sự suy giảm đạo đức xã hội. Cùng bàn về ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo qua nghiên cứu trường hợp, tác giả Trần Hồng Liên với bài Đôi nét về đạo đức tôn giáo và ảnh hưởng của nó đối với cư dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2/2002, đã khái quát đạo đức một số tôn giáo tại thành phố Hồ Chí Minh như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Islam giáo. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đến đạo đức của cư dân thành phố Hồ Chí Minh và cho rằng đạo đức tôn giáo đã góp phần vào việc ổn định trật tự xã hội. Theo Hoàng Thị Lan (Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa đạo đức của tôn giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4/2011), việc phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của các tôn giáo phải được tiến hành đồng thời với việc hạn chế dần các tác động tiêu cực của nó đối với xã hội (các hành vi mê tín dị đoan, tinh thần nhẫn nhục chịu đựng trong mọi hoàn cảnh, sự thiếu khoan dung tôn giáo,…).
Bên cạnh đó, cần phải nhận thức được rằng, những giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống tích cực của tôn giáo chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được tiếp thu, kế thừa trên cơ sở những giá trị của dân tộc và thời đại, và nó chỉ phát huy tác dụng thông qua hoạt động thực tiễn của các lực lượng cách mạng. Để phát huy hơn nữa các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp trong các tôn giáo, tác giả bước đầu đưa ra một giải pháp như: Cần nhận diện những giá trị và phản giá trị trong các tôn giáo; khuyến khích phát huy những giá trị có ảnh hưởng tích cực đối với xã hội, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực. Hoàn thiện cơ chế (xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ về vấn đề tôn giáo) phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong quá trình xây dựng nền văn hóa, đạo đức mới. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội trong vùng có đông tín đồ tôn giáo. Đấu tranh khắc phục những tiêu cực nảy sinh trong sinh hoạt tôn giáo và chống sự lợi dụng tôn giáo. Quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong các vùng đồng bào có đạo, tạo cơ sở để giáo dân tiếp nhận những giá trị văn hóa, đạo đức mới.
Cùng bàn về chủ đề này còn có các công trình: Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, 1997, Tôn giáo trong đời sống tinh thần và xã hội Việt Nam hiện nay của Đỗ Công Định, tạp chí Cộng sản, số 5/2011; Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo với đạo đức trong xã hội hiện nay của Hoàng Thị Lan, Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 200); Phát huy những điểm tương đồng của chủ nghĩa xã hội và tôn giáo để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Lê Bá Trình, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 9/2007;…
Nghiên cứu về ảnh hưởng chung của tôn giáo đối với cộng đồng cụ thể có các tác giả Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đặng Viết Đạt… Trên phương diện tổng quát, Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Thị Minh Ngọc từ sự phân tích thực tiễn đời sống tôn giáo chỉ ra tác động của tôn giáo trong đời sống tinh thần của người dân Nam bộ (Nguyễn Mạnh Cường – Nguyễn Minh Ngọc, Tôn giáo tín ngưỡng của các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB Phương Đông, 2005). Trong khi đó, Đặng Viết Đạt đi sâu phân tích tác động của tôn giáo đến đời sống tinh thần của người dân Nam bộ. Tác giả cũng đã khẳng định những yếu tố tích cực của tôn giáo nhưng chưa chỉ ra được những điều kiện để tôn giáo phát huy được những giá trị tích cực này.(Vai trò của tôn giáo đối với đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long của Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6/2011). Đi sâu vào vai trò của tôn giáo trong một cộng đồng cụ thể còn có các tác phẩm đề cập đến tôn giáo trong cộng đồng người Khmer và người Chăm. Đây là hai tộc người có nét văn hoá tôn giáo đặc trưng. Ở người Chăm đó là Bà Ni giáo và Islam giáo còn ở người Khmer đó là Phật giáo Nam tông Khmer. Vì là tôn giáo có tính đặc trưng dân tộc cao nên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống xã hội của đồng bào dân tộc. Các tác giả đã chỉ ra được sự hoà quyện giữa yếu tố tôn giáo và dân tộc trong văn hoá, đạo đức, lối sống của đồng bào dân tộc Chăm và Khmer, qua đó cũng làm nổi bật được ảnh hưởng của tôn giáo tới đời sống đồng bào hai dân tộc này. (Phật giáo Nam tông Khmer hiện nay – Thực trạng và giải pháp (2006). Đề tài cấp Bộ. Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Mạnh Cường, Viện Nghiên cứu Tôn giáo; Nguyễn Mạnh Cường – Nguyễn Minh Ngọc, Người Chăm – Những nghiên cứu bước đầu, NXB KHXH, 2003).
Nhóm nghiên cứu về vấn đề sinh hoạt tôn giáo và niềm tin tôn giáo gồm các công trình Về tôn giáo, Về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam hiện nay, Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam của Viện Nghiên cứu tôn giáo, Sự biến đổi niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của thanh niên dân tộc Chăm, tỉnh Bình Thuận hiện nay của Nguyễn Mạnh Cường, Đa dạng tôn giáo và niềm tin tôn giáo tại Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đề tài cấp Nhà nước Tôn giáo Tây Nguyên trong phát triển bền vững thuộc chương trình TN03 của Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
Công trình Về tôn giáo của Viện Nghiên cứu tôn giáo, năm 1994 tập hợp những bài viết lý luận về tôn giáo của C. Mác, Ăng ghen, Lê Nin, Hồ Chí Minh, Phiden Castrô, Feuebach, Durkheim, Y Lambert, Radhakrishnam, và V. Rojo. Vào thời điểm đó, vấn đề nghiên cứu tôn giáo tại Việt Nam mới chỉ bắt đầu, những bài viết này là vô cùng cần thiết cho giới nghiên cứu để có thể khởi đầu định hướng cho các nghiên cứu tôn giáo của mình, đặc biệt là những bài viết bàn về định nghĩa tôn giáo của Durkheim hay tháp Babel những định nghĩa về tôn giáo. Đây là những định nghĩa tôn giáo cho đến nay vẫn còn giá trị, chẳng hạn định nghĩa của Durkheim hiện vẫn là định nghĩa tôn giáo được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong các công trình nghiên cứu của mình. Cuốn sách cũng đã đặt ra vấn đề phải nhận thức lại về tôn giáo qua việc nhìn nhận lại câu nói của C. Mác “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Tuy nhiên, ngày nay, khi giới nghiên cứu tôn giáo Việt Nam đã có những điều kiện để tiếp cận đa chiều với nghiên cứu tôn giáo thế giới những nội dung này vẫn còn chưa đủ để cung cấp hệ lý luận nền tảng cho việc tiếp cận đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay.
Năm 1992 đến 1994 Viện Nghiên cứu tôn giáo tiến hành khảo sát xã hội học về tôn giáo trên quy mô toàn quốc. Kết quả khảo sát được công bố trong cuốn Về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam hiện nay do Viện Nghiên cứu tôn giáo phát hành, 1996. Cuộc khảo sát điều tra tín đồ Kito giáo và Phật giáo, Cao Đài… Về cơ bản, cuộc khảo sát này đã chỉ ra được hành vi đi lễ của tín đồ tôn giáo. Tuy vậy, hạn chế của cuộc khảo sát là số liệu thời kỳ đó không được xử lý trên phần mềm SPSS và do vậy, hiện nay, Viện Nghiên cứu tôn giáo không lưu bộ số liệu gốc. Đây là một điều đáng tiếc vì các nhà nghiên cứu sau này nếu muốn nghiên cứu thực trạng đời sống tôn giáo Việt Nam giai đoạn đầu mở cửa sẽ không có điều kiện tiếp cận tư liệu. Hạn chế nữa là trong cuộc khảo sát này, Công giáo và Tin lành ghép lại thành bộ phận Ki tô giáo. Điều đó khó khăn cho các nhà nghiên cứu sau này khi so sánh kết quả điều tra khảo sát của các giai đoạn sau khi Công giáo và Tinh lành được nghiên cứu với tư cách là hai tôn giáo độc lập.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, nxb Khoa học xã hội, 1998, do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên tập hợp nhiều bài viết có giá trị về cả lý luận và thực tiễn tôn giáo Việt Nam. Bài Bàn về tôn giáo của Đặng Nghiêm Vạn cho rằng tôn giáo cần được đặt ra trong mối tương quan với các vấn đề về triết học,xã hội học, và văn hóa nói chung. Tôn giáo là một phạm trù của ý thức hệ, nhưng rất đặc biệt bởi lẽ nó còn là một yếu tố xã hội, một yếu tố văn hóa, có tính xuyên không gian và xuyên thời gian. Biểu hiện của một tôn giáo cụ thể không dừng ở dạng ban đầu, mà thay đổi, biến hóa khác nhau, thậm chí ở các vùng trong một nước và tất nhiên ở các nước khác nhau. Về bản chất, tôn giáo được con người sáng tạo ra cùng với khi họ biết tổ chức thành một xã hội, một cộng đồng tương đối ổn định. Như vậy, tôn giáo là một sản phẩm của con người, mang tính xã hội và văn hóa. Bài viết cũng cho thấy niềm tin tôn giáo của người Việt Nam thể hiện qua cuộc điều tra xã hội học tôn giáo năm 1992-1994 là niềm tin mang tính đa dạng. Trung bình, một người được hỏi tham gia vào từ 2 đến 3 hành vi tôn giáo khác nhau. Người Công giáo thuộc về tôn giáo độc thần nhưng trên thực tế đã mang một tâm thức tôn giáo phiếm thần. Tác giả cho rằng, để hình thành đức tin hay niềm tin tôn giáo, người theo đạo phải dựa vào hai yếu tố: nội dung hay giáo lý và hành vi hay nghi thức. Để củng cố niềm tin tôn giáo, nghi thức: thờ cúng, lễ thức, hành hương, kiêng cữ… đóng một vai trò rất quan trọng. Tín đồ tôn giáo “hâm nóng” niềm tin tôn giáo của mình qua các nghi thức không chỉ ở bản thân hành vi tôn giáo mà ở tính cộng đồng của những người cùng nhu cầu tôn giáo.
Cuốn Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam của Đặng Nghiêm Vạn, nxb Chính Trị Quốc gia, 2001 là một trong những cuốn sách đi sâu về thực trạng đời sống tôn giáo Việt Nam. Cuốn sách dựa vào kết quả khảo sát của hai đợt điều tra xã hội học về tôn giáo toàn quốc (đợt 1 từ năm 1992-1994 và đợt 2 từ 1995 đến 1998). Bên cạnh phần lý luận về tôn giáo như đối tượng của tôn giáo, yếu tố cấu thành một hình thức tôn giáo hay nhu cầu, vai trò và diễn biến tôn giáo trong đời sống thì cuốn sách đi sâu vào phân tích đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam và đặc trưng và vai trò cụ thể của các tôn giáo cụ thể ở Việt Nam thời kỳ sau đổi mới đến giai đoạn đầu 2000. Diễn biến và tình hình đời sông tôn giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử cho đến giai đoạn đầu 2000 đã được tác giả mô tả sinh động, cung cấp cho người đọc nhiều tư liệu hay về đời sống tôn giáo thời kỳ đầu đổi mới.
Bài Sự biến đổi niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của thanh niên dân tộc Chăm, tỉnh Bình Thuận hiện nay của Nguyễn Mạnh Cường[3] đã cho thấy bức tranh tôn giáo đa dạng và phức tạp trong cộng đồng Chăm. Tôn giáo người Chăm góp phần tích cực vào sự hình thành nên bản sắc văn hóa Chăm. Tuy nhiên, bài viết đã chỉ ra sự thay đổi niềm tin tôn giáo của thanh niên Chăm. Ngày nay, thanh niên Chăm lại không thích tôn giáo truyền thống của mình. Làn sóng chuyển từ tôn giáo truyền thống sang Islam, Công giáo, Tin lành ngày càng gia tăng. Phai nhạt niềm tin tôn giáo của thanh niên Chăm được tác giả lý giải do tính kém thích nghi với xã hội hiện đại của tôn giáo truyền thống và những nghi lễ thủ tục rườm rà, tốn kém của nó.
Đa dạng tôn giáo và niềm tin tôn giáo tại Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Minh Ngọc đi sâu vào mô tả đời sống tôn giáo Việt Nam trong đó nhấn mạnh về niềm tin tôn giáo trong bối cảnh đa dạng tôn giáo. Bài viết sinh động với nhiều số liệu khảo sát cho người đọc hiểu được thực trạng niềm tin tôn giáo tại Việt Nam hiện nay. Hạn chế của bài viết là chưa chỉ ra được tương quan tuổi trong các số liệu khảo sát.
Đề tài cấp Nhà nước Tôn giáo Tây Nguyên trong phát triển bền vững thuộc chương trình TN03 của Viện Nghiên cứu Tôn giáo, đã đi sâu phân tích đời sống tôn giáo hiện nay tại 5 tỉnh Tây Nguyên. Đề tài có tiến hành khảo sát tín đồ các tôn giáo tại địa bàn này. Tuy khảo sát có khoảng tuổi, nhưng đề tài chưa tiến hành phân tích để chỉ ra các chỉ báo về niềm tin tôn giáo và thực hành tôn giáo theo nhóm tuổi. Cũng giống như đề tài TN03, đề tài cấp Nhà nước Phát huy giá trị tôn giáo trong xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay của Viện Nghiên cứu Tôn giáo cũng đã khảo sát về niềm tin tôn giáo và hành vi thực hành tôn giáo của tín đồ tôn giáo tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đăk Lak,Lạng Sơn nhưng cũng chưa phân tích chỉ báo nhóm tuổi.
- Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Đa dạng tôn giáo và những vấn đề niềm tin tôn giáo của Wilfred C. Smith[4] của James C. Livingston là bài viết đi sâu vào vấn đề niềm tin tôn giáo trong điều kiện đa dạng tôn giáo. James C. Livingston là một chuyên gia trong lịch vực tôn giáo học so sánh. Đầu tiên, tác giả phân tích thể chế và vị trí của đa dạng tôn giáo nhằm trả lời câu hỏi đa dạng tôn giáo có vai trò gì trong đời sống xã hội. Tác giả mô tả niềm tin tôn giáo trong bối cảnh đa dạng phức tạp của xã hội hiện đại. Đồng thời tác giả cũng đặt ra vấn đề tôn giáo cá nhân. Bài viết tiếp cận từ góc độ lý thuyết của Smith để lý giả để lý giải vấn đề niềm tin tôn giáo.
Bài thách thức của đa dạng tôn giáo của Diana L. Eck[5] phân tích đời sống tôn giáo mới và những thách thức của nó trong bối cảnh đa dạng tôn giáo. Theo ông, trong thập kỷ tới, thực tế mới đa tôn giáo này sẽ có tác động đến hầu như mọi khía cạnh của đời sống công cộng của Mỹ. Vấn đề niềm tin tôn giáo cũng có nhiều thay đổi. Đặc biệt sự thay đổi niềm tin khi có sự cải đạo.
Tôn giáo và xã hội hiện đại, biến chuyển của lòng tin ở phương Tây của Cao Huy Thuần là cuốn sách bàn về vấn đề tôn giáo trong xã hội hiện đại từ góc nhìn xã hội học. Tác giả đã lý giải biến đổi của niềm tin tôn giáo tại Châu Âu hiện nay. Theo đó, xu hướng tôn giáo cá nhân đang dần được hình thành. Tác giả cho rằng, không phải tôn giáo biến đi mất, mà là tôn giáo thay đổi, biến thể. Các tôn giáo cổ truyền lớn ở phương Tây biết mình mất ảnh hưởng trên xã hội nên có khi phản ứng mạnh, có khi phải uyển chuyển thích ứng, có khi phải canh tân. Niềm tin tôn giáo truyền thống đã thay đổi. Những phân tích của tác giả là rất cần thiết để đánh giá lại vai trò của tôn giáo trong xã hội phương Tây hiện nay.
Tuy các nghiên cứu về tôn giáo có nhiều nhưng nghiên cứu chuyên biệt về hành vi tôn giáo của thanh niên hầu như còn vắng bóng. Do vậy, bài viết này chúng tôi mong muốn đi sâu tìm hiểu về hành vi tôn giáo của nhóm thanh niên là tín đồ Phật giáo trên địa bàn Hà nội.
- Thực trạng hoạt động tôn giáo của thanh niên Hà nội hiện nay
2.1 Về nguyên nhân đi lễ
Một bộ phận thanh niên hiện nay có xu hướng thích đi lễ chùa. Mong muốn đi lễ chùa xuất phát từ nhu cầu được nương tựa vào một sức mạnh thiêng để an định tinh thần. Các tôn giáo mặc dầu có sự khác nhau về giáo lý và nghi thức thực hành nghi lễ nhưng đều cùng chung chức năng an định tinh thần cho con người.Trong mỗi thời kỳ phát triển của lịch sử loài người, con người khi cảm thấy yếu đuối trước các thế lực tự nhiên và xã hội thì thường viện đến thần linh, đến các thực thể siêu nhiên để phù trợ cho cộng đồng, cho cá nhân được che chở trước những hiểm họa thiên tai hay những bất công và may rủi trong cuộc sống. Nhu cầu tôn giáo vừa có tính cộng đồng, vừa mang tính cá nhân, xuất phát từ sự mong muốn dựa vào sức mạnh thần bí siêu nhiên, để hỗ trợ cho bản thân vượt lên trên những khó khăn trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Chức năng an định tinh thần của tôn giáo đã từng được C. Mác đề cập trong luận đề nổi tiếng của mình: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995:570).
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện đại, chức năng an định tinh thần của Phật giáo cũng đã được thể hiện ở sự mang lại trạng thái tinh thần an lạc, bình an, giải tỏa stress, thoải mái và giải tỏa những lo lắng, phiền muộn các vấn đề cuộc sống trần thế và cuộc sống sau khi chết của sự tham gia vào những nghi lễ Phật giáo. Chức năng an ninh tinh thần của Phật giáo được Đỗ Quang Hưng đề cao khi nhấn mạnh chức năng điều chỉnh tâm lý, cân bằng trạng thái tâm lý con người trước tình trạng căn bệnh stress ngày càng gia tăng trong xã hội hiện đại của Phật giáo. Ông viết: “Riêng vấn đề tâm linh, tâm lý tinh thần nội tại con người, thì có lẽ chỉ những tôn giáo như đạo Phật mới có khả năng điều chỉnh sự cân bằng, có thể giúp con người sống hài hoà trong thế giới này” (Đỗ Quang Hưng, 216:212).
Biểu 1: Nguyên nhân đi lễ của hai nhóm thanh niên
Nguồn: Khảo sát của đề tài tại Hà Nội, 2017.
Khảo sát của đề tài tập trung tìm hiển 4 nguyên nhân phổ biến đối với hành vi đi lễ là: do cuộc sống nhiều khó khăn bất trắc; do truyền thống gia đình; do bạn bè rủ đi; và do muốn cầu xin một việc gì cho cá nhân và gia đình. Kết quả khảo sát trình bày trong Biểu 1 cho thấy, hai nguyên nhân có tỉ lệ lựa chọn cao nhất ở cả hai nhóm là do truyền thống gia đình (38,9% và 40,1%) và do muốn cầu xin một việc gì cho cá nhân và gia đình (70,5% và 50,8%). Như vậy là có sự khác biệt giữa nhóm thanh niên phật tử và nhóm thanh niên không phải là tín đồ tôn giáo về nguyên nhân đi lễ tại cơ sở thờ tự, nhất là nguyên nhân mong muốn cầu xin một sự trợ giúp cho cá nhân và gia đình. Điều này cho thấy thanh niên là phật tử có niềm tin vào sức mạnh phù trợ của chư Phật nhiều hơn so với thanh niên không là tín đồ tôn giáo. Bạn bè rủ rê cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn đến việc thanh niên đi lễ, và phổ biến ở nhóm thanh niên không tôn giáo (31%) hơn ở nhóm thanh niên là phật tử (26,8%). Khó khăn bất trắc trong cuộc sống cũng là một trong những lý do khiến nhiều thanh niên thực hiện hành vi đi lễ tìm chỗ dựa tinh thần. Có sự khác biệt lớn giữa hai nhóm thanh niên là phật tử và thanh niên không là tín đồ tôn giáo về lý do đi lễ này, trong đó, tỉ lệ thanh niên là phật tử đưa ra nguyên nhân này là 29,5%, cao hơn hẳn trong nhóm thanh niên không là tín đồ tôn giáo (13,7%).
Có sự khác biệt giữa các nhóm thanh niên về nguyên nhân đi lễ (Bảng 2). Đối với thanh niên là phật tử, so sánh nhóm thanh niên nội thành và ngoại thành, sự khác biệt lớn ở nguyên nhân: đi lễ là do bạn bè rủ đi (23,4% và 30,2%) và đi lễ là mong muốn cầu xin một việc gì cho bản thân và gia đình (17% và 46,9%). So sánh giữa thanh niên nam và nữ là phật tử, sự khác biệt lớn ở nguyên nhân do truyền thống gia đình (43,3% và 36,9%) và do bạn bè (35% và 23,1%). Sự khác biệt lớn nhất giữa hai nhóm tuổi là ở nguyên nhân do cuộc sống nhiều khó khăn bất trắc (23,9% và 35,5%) và do muốn cầu xin một việc gì cho bản thân và gia đình (39,4% và 25,4%). Hai nhóm trình độ học vấn của thanh niên phật tử không có sự khác biệt quá lớn về nguyên nhân đi lễ. Sự khác biệt lớn giữa hai nhóm nội thành và ngoại thành theo chiều hướng thanh niên phật tử ngoại thành có tỉ lệ đi lễ do bạn bè rủ đi cao hơn thanh niên phật tử nội thành cho thấy tác động của mối quan hệ xã hội mà cụ thể ở đây là quan hệ bạn bè đến hành vi tôn giáo của thanh niên phật tử ngoại thành là lớn hơn thanh niên phật tử nội thành. Sự khác biệt lớn hai nhóm tuổi của thanh niên phật tử theo chiều hướng nhóm tuổi 23-29 có tỉ lệ lựa chọn nguyên nhân đi lễ do cuộc sống gặp nhiều khó khăn, bất trắc cao hơn nhóm tuổi 15-22 cho thấy nhóm tuổi 23-29 là nhóm tuổi thực sự phải bắt đầu cuộc sống tự lập và họ cần sự trợ giúp của tôn giáo. Điều này thể hiện nhu cầu tôn giáo của nhóm tuổi 23-29 là cao hơn nhóm tuổi 15-22.
Bảng 2. Nguyên nhân đi lễ của thanh niên phân theo tôn giáo và đặc điểm cá nhân
Đơn vị: %
Địa bàn | Giới tính | Tuổi | Học vấn | |||||
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | ≤ THPT | Trên THPT | |
· Nhóm Phật giáo: | ||||||||
Do cuộc sống nhiều đau khổ, bất trắc | 31,9 | 27,1 | 31,7 | 28,5 | 23,9 | 35,5 | 32,7 | 26,1 |
Do truyền thống gia đình | 36,2 | 41,7 | 43,3 | 36,9 | 33,8 | 40,9 | 40,8 | 37,0 |
Do bạn bè rủ đi | 23,4 | 30,2 | 35,0 | 23,1 | 26,8 | 28,2 | 27,6 | 26,1 |
Do muốn cầu xin một việc gì cho cá nhân, GĐ | 17,0 | 46,9 | 30,0 | 33,1 | 39,4 | 25,4 | 31,6 | 32,6 |
N | 99 | 101 | 63 | 137 | 78 | 122 | 103 | 97 |
· Không tôn giáo: | ||||||||
Do cuộc sống nhiều đau khổ, bất trắc | 16,5 | 11,0 | 13,3 | 14,0 | 14,7 | 12,5 | 12,7 | 15,9 |
Do truyền thống gia đình | 41,2 | 39,0 | 47,0 | 35,1 | 42,2 | 37,5 | 42,5 | 34,9 |
Do bạn bè rủ đi | 33,0 | 29,0 | 38,6 | 25,4 | 23,9 | 39,8 | 28,4 | 36,5 |
Do muốn cầu xin một việc gì cho cá nhân, GĐ | 53,6 | 48,0 | 45,8 | 54,4 | 52,3 | 48,9 | 50,7 | 50,8 |
N | 100 | 100 | 84 | 116 | 109 | 91 | 136 | 64 |
Nguồn: Khảo sát của đề tài tại Hà Nội, 2017.
Với nhóm thanh niên không thuộc tín đồ tôn giáo, không có sự khác biệt quá lớn về nguyên nhân đi lễ giữa khu vực nội thành và ngoại thành. Hai nhóm nam và nữ có sự khác biệt lớn ở các nguyên nhân: do truyền thống gia đình (47% và 35,1%), do bạn bè (38,6% và 25,4%), do muốn cầu xin một việc gì đó cho bản thân và gia đình (45,8% và 54,4%). Hai nhóm tuổi có sự khác biệt lớn ở nguyên nhân bạn bè (23,9% và 39,8%). Hai nhóm trình độ học vấn không có sự khác biệt lớn. Sự khác biệt lớn giữa hai nhóm nam và nữ ở nguyên nhân truyền thống gia đình và do bạn bè với tỉ lệ cao nghiêng về nam cho thấy hành vi đi lễ của nam thanh niên chịu tác động của yếu tố bên ngoài như gia đình và bạn bè nhiều hơn nữ thanh niên, trong đó yếu tố gia đình có sự chi phối mạnh mẽ hơn yếu tố bạn bè thay vì hành vi đi lễ được chi phối bởi nhu cầu tâm linh nội tại của cá nhân. Sự khác biệt lớn giữa hai nhóm tuổi ở nguyên nhân đi lễ do sự tác động của bạn bè với chiều hướng nhóm tuổi 23-29 có tỉ lệ cao hơn cho thấy nhóm tuổi này ảnh hưởng bạn bè chi phối mạnh mẽ đến hành vi tôn giáo của họ. Nhóm tuổi này cũng là nhóm tuổi đa phần đã kết thúc thời kỳ học tập, bắt đầu đối mặt với cuộc sống độc lập. Gia đình là một yếu tố quan trọng trong mọi quyết định cá nhân, song, khi cá nhân thực sự bước vào cuộc sống xã hội, những tác nhân xã hội, những quan hệ xã hội trở thành yếu tố quan trọng đối với họ. Hành vi cá nhân giai đoạn này chịu ảnh hưởng nhiều của các mối quan hệ xã hội trong đó bạn bè là một nguồn vốn xã hội có tác động mạnh mẽ đến cá nhân.
Như vậy, đi lễ là vì cuộc sống còn nhiều vất vả khó khăn, chưa được toại nguyện hay vì mong cầu những điều tốt lành cho bản thân mình và gia đình… đều cho thấy thanh niên thực hiện hành vi đi lễ với mong muốn nhận được sự che chở, phù hộ của các đấng thần linh Phật giáo.
Em đi lễ là để cầu mong được sự che chở của chư Phật và Bồ tát. Cuộc sống quá nhiều áp lực nặng nề, em cần một sự giải toả. Cứ mỗi khi em cảm thấy chơi vơi không lối thoát em lại lên chùa cầu Phật. Cầu Phật xong, ít nhất tâm em thanh thản. Nhờ vậy mà có lúc em thấy mình thông minh hơn để giải quyết những rắc rối của mình.
(Nữ, 26 tuổi, làm nghề tự do)
Cảm giác bình an, thanh thản cũng là cảm giác đa số người đi lễ chùa nhận được sau khi lên chùa cúng Phật. Chính vì cảm giác thanh thản là cảm giác đa số người đi lễ nhận được nên đi lễ để có được sự thanh thản trong tâm hồn cũng là lý do đi lễ của nhiều thanh niên Hà Nội hiện nay.
Em chưa có quy y, thi thoảng đi lễ để có được sư thanh thản. Em cũng không thường xuyên đi lễ. Vào chùa, khung cảnh chùa rồi thì mình lễ Phật làm cho mình quên đi được những ức chế mà xã hội bên ngoài mang lại.
(Nữ, 24 tuổi, nhân viên văn phòng)
Kết quả khảo sát cho thấy, 79,5% thanh niên là phật tử và 52,3% thanh niên không tôn giáo cảm thấy bình an sau khi đi lễ; 66,8% thanh niên là phật tử và 42,1% thanh niên không tôn giáo cảm thấy thanh thản sau khi đi lễ; 67,9% thanh niên là phật tử và 56,3% thanh niên không tôn giáo cảm thấy thoải mãi sau khi đi lễ. Kết quả đó phản ánh cảm nhận tích cực của thanh niên đối với hành vi đi lễ và nó cũng khẳng định chức năng an định tinh thần của Phật giáo. Nhóm thanh niên là phật tử có tỉ lệ thu được các cảm giác tích cực khi đi lễ cao hơn nhóm thanh niên không phải là tín đồ tôn giáo.
Đi lễ để có được sự yên tâm về cuộc sống bản thân nói chung hay yên tâm về một vấn đề quan trọng trước mắt của bản thân cho thấy thanh niên chưa tự tin vào sự quyết định của bản thân và sự phù trợ của chư Phật, Bồ tát có tác dụng gia tăng tính tự tin đó. Niềm tin rằng có một thế lực thiêng bên cạnh ủng hộ, cùng chung sức tạo cho họ một sức mạnh vô hình để tự tin bước tiếp theo những gì mình đã chọn.
Mỗi khi có việc quan trọng thì em đi lễ chùa cầu Phật. Em nói rõ với Phật việc em định làm và xin chư Phật, Bồ tát phù hộ. Công việc em nhiều rủi ro. Cầu Phật gia hộ khiến em thấy yên tâm hơn nhiều.
(Nam 30 tuổi, kinh doanh nhỏ)
2.2. Về mục đích đi lễ
Mục đích đi lễ hiện nay của thanh niên chủ yếu hướng đến những giá trị trần thế thay vì giá trị xuất thế. Mục đích này khẳng định tính thế tục của Phật giáo trong bối cảnh xã hội hiện đại. Thế tục hóa đề cập đến tầm quan trọng của việc giảm bớt vai trò giới luật và nghi thức tôn giáo trong hoạt động hàng ngày của cá nhân và nhóm. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, thế tục không còn được nhìn nhận như sự mất đi của tôn giáo mà được nhìn nhận dưới 2 góc độ: thứ nhất, sự suy giảm quyền lực tôn giáo trong đời sống cá nhân, thể hiện ở sự giảm sút niềm tin tôn giáo cá nhân, giảm sút sự tham gia các hoạt động tôn giáo cá nhân. Thứ hai, tôn giáo hòa nhập vào xã hội. Sự hoà nhập Phật giáo và xã hội thể hiện trên nhiều chiều cạnh trong đó việc Phật giáo đáp ứng nhu cầu cuộc sống trần thế cho tín đồ là một biểu hiện. Mục đích đi lễ chùacủa nhiều thanh niên hiện nay là cầu sức khoẻ và bình an.
Cầu khấn cho bản thân và gia đình mạnh khỏe, cuộc sống gia đình hạnh phúc. Tiền tài và công danh sự nghiệp. Ngoài ra còn đi cho tĩnh tâm, để thoải mái đầu óc.
(Nam, 21 tuổi, sinh viên,)
Kết quả khảo sát cũng cho thấy thanh niên ở cả hai nhóm thanh niên là phật tử và thanh niên không tôn giáo có tỉ lệ lựa chọn cao ở mục đích đi lễ để cầu sức khỏe, bình an, trong đó nhóm thanh niên là phật tử có tỉ lệ cầu bình an cao hơn cầu sức khỏe (khoảng chênh lệch thấp) ngược lại nhóm thanh niên không tôn giáo có tỉ lệ cầu sức khỏe cao hơn nhiều so với cầu bình an. Đối với các tiêu chí cầu công việc may mắn, cầu tình duyên, cầu gia đình êm thấm, cầu phát tài thì yếu tố gia đình được đật lên trên cho cả hai nhóm thanh niên phật tử và thanh niên không tôn giáo trong đó, thanh niên không tôn giáo có tỉ lệ cao hơn thanh niên phật tử (55,6% và 49,5%). Thanh niên không tôn giáo có tỉ lệ đi lễ cầu phát tài cao hơn hẳn thanh niên phật tử (35,4% và 18,9%). Tỉ lệ cầu tình duyên của thanh niên không tôn giáo cũng cao hơn thanh niên phật tử (24,7% và 20,5%). Kết quả đó cho thấy thanh niên không tôn giáo có niềm tin mang tính thế tục/ niềm tin nhập thế nhiều hơn so với thanh niên phật tử.
Biểu 2: Mục đích cầu xin khi đi lễ của thanh niên
Nguồn: Khảo sát của đề tài tại Hà Nội, 2017.
Điều này đã được chỉ ra trong nghiên cứu của Trịnh Thị Tuyết (2017: 67). Nghiên cứu của Hoàng Thu Hương cũng cho cùng kết quả về mục đích đi của người đi lễ chùa tại Hà Nội bởi nó thể hiện mong muốn chung về những khát vọng trong cuộc sống hàng ngày. “Mục đích chung nhất đối với hầu hết những người đi lễ chùa là cầu sức khỏe, tài lộc và công danh. Đấy là những nhu cầu hết sức phổ biến của con người nói chung” (Hoàng Thu Hương, 2012: 21).
Hướng đến cầu mong một điều gì đó cụ thể cho bản thân và người thân là mục đích phổ biến của người đi lễ chùa không chỉ riêng thanh niên. Thanh niên là nhóm tuổi còn nhiều mong cầu, nhiều chông chênh trong cả cuộc sống cá nhân và sự nghiệp, điều này dễ lý giải vì sao mục đích đi chùa của nhóm này chủ yếu hướng về những giá trị thiết thực của cuộc sống hàng ngày như bình an, sức khoẻ, công danh hay tài lộc.
Bên cạnh đó, một số bạn trẻ mong muốn được tiếp thu học hỏi tri thức Phật giáo qua mỗi lần đi chùa để áp dụng nó vào cuộc sống hàng ngày.
Đúng là em không chỉ đơn thuần đi lễ thông thường (mà) em muốn làm sao mình có thể học được nhiều hơn đẻ áp dụng vào cuộ sống.
(Nam, 28 tuổi, giáo viên dạy nhạc)
Một số thanh niên khác đi chùa vì lòng mến mộ đạo Phật và có niềm tin vào Phật pháp.
Hồi còn nhỏ em rất thích ra chùa, thích theo bà đi lễ. Hồi những năm em còn 8,9 tuổi. Từ sở thích rồi thì khi đến với tuổi nhận thức được thì mình có niềm tin, niềm tin cộng với ý thức hệ nó sẽ tạo cho mình nương tựa về tâm linh, cộng với các điều đó thì là cho em thích đạo Phật, thích đi chùa ạ.
(Nam, 29 tuổi, hướng dẫn viên du lịch)
Tuy nhiên, cho dù đi chùa là sở thích từ nhỏ và đến với chùa vì niềm tin với đạo Phật thì bản thân cá nhân này cũng có sự mưu cầu ở Phật pháp những mục đích hướng về cuộc sống hàng ngày, nhưng sâu xa yếu tố tâm linh, động cơ tâm linh vẫn là nhân tố chủ yếu nhất của hành vi đi lễ chùa.
Thực ra thì tức là em cứ cảm giác như trong người mình, trong nội lực bản thân là đã có sẵn một cái gì đấy tự thôi thúc tự hướng mình đến chùa đền những nơi tâm linh. Còn cái bên ngoài tác động vào càng lớn đến độ tuổi 14-15 đi học đi thi cần có một chỗ dựa tâm linh là cầu cho học hành thuận lợi cầu may mắn. Thì đó là cái bên ngoài và cái bên trong dẫn tới việc là em có may mắn gắn bó với đạo phật là từ những năm em 8-9 tuổi, thì càng lớn thì ý thức hệ và tư duy tôn giáo tín ngưỡng nó phát triển hơn và mình va chạm với nhiều người hơn thì khi đi chùa mình làm gì, mình lễ mình phải làm gì, thì mình càng yêu đạo Phật hơn và khi qua tuổi dậy thì và khi lập gia đình và đi làm thì thấy được là nó là phần không thể thiếu được của cuộc sống là phần vật chất và mặt tinh thần.
(Nam, 29 tuổi, hướng dẫn viên du lịch)
Mong muốn được Phật độ hay mong muốn có được sự thanh thản khi đi lễ của thanh niên cho thấy tính nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong xã hội hiện đại. Đây là đặc điểm chú trọng vào yếu tố Sinh theo Nguyễn Duy Hinh. Ông cho rằng: “không phải Tử mới là tôn giáo, mà Sinh cũng là tôn giáo. Sinh, Tử đều quan trọng như nhau đối với nhân sinh.”(Nguyễn Duy Hinh, 2007:258). Chú trọng vào yếu tố Sinh chính là chú trọng vào cuộc sống hiện tại. Sinh không chỉ dừng lại ở sự kiện ra đời khởi đầu mà nó liên quan tới một quá trình, một diễn biến tiếp theo của cuộc sống, quá trình sống. Chú trọng vào yếu tố sinh cũng là chú trọng vào quá trình sống, cuộc sống trong đời hiện tại hay kiếp hiện tại theo ngôn từ Phật giáo. Nó thể hiện tư tưởng đi tìm cõi niết bàn trong cuộc sống đời thực cho kiếp này không phải là sự giải thoát cho kiếp sau. Chú trọng vào yếu tố Tử là chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, vào kiếp sau. Đây là mối quan tâm chung của tất cả các tôn giáo. Tư tưởng, lý luận chính thống của tất cả các tôn giáo đều tập trung giải quyết vấn đề Tử và cuộc sống sau khi chết. Mục đích tối thượng, hay mục đích cuối cùng của các tôn giáo là đi tìm sự giải thoát cho cá nhân sau khi chết hay đi tìm một cuộc sống sung sướng vĩnh hằng sau khi chết. Nơi mang lại hạnh phúc vĩnh hằng cho các linh hồn là cõi Niết Bàn (Phật giáo) hay Thiên Đường (Thiên Chúa giáo).
Đi lễ, đến với đạo Phật để tìm hiểu giáo lý nhà Phật cũng là lựa chọn của một số thanh niên, tuy nhiên số người lựa chọn mục đích này không nhiều. Nhóm này thường là phật tử chính thức có quy y Tam bảo.
Có một cái gì như kiểu là nhân duyên, em đến chùa để giúp chùa để giúp chùa làm chương trình Phật đản 2013 sau đó thì tiếp tục là được các sư bác nhờ là làm chương trình tiếp thì em đến làm em cảm thấy bắt đầu có cái nhân duyên đấy thì bắt đầu lúc đấy là mình có một cái mong muốn gì đó đến chùa là để tìm hiểu sâu về phật pháp hơn.
(Nữ, 24 tuổi, nhân viên kinh doanh)
Nhu cầu đi lễ, hay đến với Phật giáo để đạt giải thoát ở kiếp sau, về cõi Niết Bàn trong nhóm thanh niên chúng tôi khảo sát có rất ít thanh niên nào lựa chọn mục đích này. Nhu cầu đến với đạo Phật của thanh niên đặt ra vấn đề cho Phật giáo trong xã hội hiện đại là đáp ứng nhu cầu của cuộc sống hàng ngày. Hướng đến đời sống thế tục là một nhiệm vụ của Phật giáo đương đại, tuy vậy, chỉ chú trọng đến tính nhập thế mà xa rời tính xuất thế cũng không phải là mục đích cuối cùng của Phật giáo hiện đại hoá. Thích Nhất Hạnh (2010) cho rằng Phật giáo hiện đại hoá cần phải đi vào cuộc đời nhưng không để cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó. Chính vì khi hiện đại hoá, Phật giáo không mất đi những giá trị nguyên bản của nó nên có những bạn trẻ có duyên cùng Phật pháp nên yêu mến đạo Phật tử nhỏ mà đến với Phật giáo. Điều này khẳng định sự thu hút của Phật giáo bởi những giá trị đích thực của nó vẫn hiện tồn.
Thật ra em có lòng tin với Phật từ năm em lên 7 tuổi cơ, thì ngày xưa em xem phim có phim tây du ký nó có 1 hình ảnh đẹp nhất mà em biết là hình ảnh Quan âm bồ tát thì hình ảnh ngấm vào người của em thì khi đến Chùa hình tượng nó rất đẹp, gần gũi, linh thiêng và em có thể dựa vào đó được. đấy là năm em 7 tuổi, sau đó do học hành, công việc nên em cũng không có thời gian, nhưng sau khi lên đại học em mới bắt đầu tìm đến những ngôi Chùa để biết rằng tại sao ngày xưa lại có như thế và mình muốn đến Chùa như vậy.
(Nam, 27 tuổi, kỹ sư)
Những người đi chùa vì nhu cầu tâm linh và thấy đạo Phật như một phần không thể thiếu của cuộc sống thì tư tưởng triết lý đạo Phật được họ hấp thu, chuyển tải thành lối sống cá nhân. Lối sống Phật giáo này còn được lan toả trong gia đình đặc biệt khi họ đứng vai trò chủ gia đình.
2.3. Về cách thức đi lễ
Cách thức đi lễ được thể hiện qua nhiều hành vi khác như trang phục đi lễ, cách thức sắm đồ lễ, quy trình lễ tại chùa… cách thức đi lễ cho chúng ta nhiều chỉ báo về niềm tin tôn giáo, nhận thức tôn giáo của người đi lễ. Một số chỉ báo trong cách thức đi lễ thể hiện rất rõ tình mục đích của người đi lễ.
Đi lễ chùa, thực hiện các nghi lễ tại chùa là một hình thức giao tiếp với chư Phật, Bồ tát, các đối tượng thiêng được thờ cúng tại chùa. Số đông thanh niên đi lễ thực hiện hành vi này như trên đã phân tích là để mong cầu sự bình an, thanh thản, cho bản thân, cầu xin sự phù hộ một điều gì đó cho bản thân và gia đình; hay cầu xin những gì trực tiếp gắn liền với cuộc sống hàng ngày của họ như tiền tài, công danh, tình duyên… Để quá trình giao tiếp với thế giới linh thiêng của Phật giáo được tiến hành, điều đòi hỏi đầu tiên đối với người đi lễ là thái độ trang nghiêm, tôn kính. Điều này được thể hiện trước hết qua trang phục. Trang phục đi lễ được coi là phải trang nghiêm. Nhiều cơ sở thờ tự đều có biển quy định “không mặc váy ngắn, quần sooc vào chùa”. Thực tế, qua quan sát, chúng tôi thấy rằng hiện vẫn có thanh niên mặc váy ngắn đến chùa. Một số khác mặc áo không tay (sát nách). Đa số, thanh niên có nhận thức đúng đắn về trang phục khi vào chùa.
Nghiên cứu của Trịnh Thị Tuyết (2017) cũng khẳng định sinh viên có nhận thức đúng đắn về trang phục khi đi lễ chùa. “Kết quả thu được cho thấy 100% số người được hỏi đều ăn mặc lịch sự, đúng mực khi đi lễ chùa. Trong đó có 50% số người được hỏi mặc quần dài, áo dài tay. 36,9% mặc quần dài, áo cộc có cổ và 13,1% số người trả lời mặc quần áo Phật tử. Các phương án như mặc váy, mặc quần sooc, áo phông, ăn mặc thế nào cũng được đều không có người được hỏi nào lựa chọn” (Trịnh Thị Tuyết, 2017:52). Nhóm không phải sinh viên chúng tôi phỏng vấn đa phần cũng có nhận thức đúng đắn về trang phục khi đi lễ chùa.
Chùa là nơi linh thiêng, không thể muốn mặc thế nào thì mặc cả. Đúng nhất thì phải quần dài, áo dài tay; không thì cũng phải áo cộc tay; váy thì nên váy dài hay dạng công sở; không nên váy ngắn, quần sooc. Mặc không nghiêm chỉnh là thất lễ với chư Tăng, chư Phật.
(Nữ, 24 tuổi, nhân viên kinh doanh)
Những người ăn mặc đúng quy cách cảm thấy phản cảm khi chứng kiến những thanh niên mặc trang phục hở hang vào chùa.
Thì tôi mặc quần dài, áo phông hay sơ mi thôi. Nhưng tôi thấy các cô cậu thanh niên bây giờ hay mặc váy ngắn, có những cô còn mặc nguyên bộ đồ ở nhà đến chùa. Các anh thì mặc quần sóc, nhìn nó không hợp mắt tí nào.
(Nữ, 30 tuổi, buôn bán nhỏ)
Trang phục không đúng quy cách để đảm bảo sự tôn nghiêm nơi cửa Phật bị coi là làm mất đi không gian linh thiêng cần thiết, và như vậy nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của việc đi lễ hay hiệu quá đạt được giá trị mong muốn. Tuy nhiên, tôn giáo mang lại những giá trị vô hình, giá trị trợ giúp tinh thần nên khẳng định tính hiệu quả của đi lễ chùa tới cuộc sống hiện hữu bằng những giá trị hiện hữu là điều không thể thực hiện. Do vậy, cho dù đa số thanh niên khi vào chùa đã ý thức được những quy định về trang phục thì vẫn còn một số thanh niên ăn mặc tùy tiện, không đúng quy cách đối với người đi lễ chùa. Tỉ lệ nữ mặc trang phục không đúng quy định vào chùa nhiều hơn nam. Nhóm thanh niên là phật tử luôn có trang phục đúng quy cách khi vào chùa. Nhóm thanh niên không phải là tín đồ tôn giáo vẫn còn mặc trang phục không đúng quy cách.
Đồ lễ là một yếu tố quan trọng của việc đi lễ. Đồ lễ cũng phản ánh được phần nào mục đích của người đi lễ. Hiện không có quy định đi chùa phải mang theo đồ lễ gì? Qua quan sát, có thể thấy thanh niên đi lễ chùa thường đặt lễ tại các ban gồm: hương, hoa, quả và thêm vào đó là vàng mã, tiền âm phủ. Bên cạnh đó, tỉ lệ người đặt tiền lên hương án thờ Phật, Bồ Tát ngày càng có xu hướng gia tăng. Như vậy, đồ lễ cũng có sự thay đổi theo thời gian. Ngày nay, tiền đang trở thành một loại đồ lễ mới. Nếu như trước đây, tiền lẻ chỉ dùng để bỏ vào hòm công đức, thì hiện nay nó lại xuất hiện trên hương án với tư cách là một loại đồ lễ. Hai loại hình đồ lễ phổ biến nhất được thanh niên lựa chọn đi lễ chùa là hương và tiền lẻ. Đồ lễ nếu là hoa quả, bánh kẹo hay các vật phẩm khác thường được đặt vào đĩa, tiền lẻ thường được đặt trực tiếp lên ban thờ hoặc gài vào hoa quả trong đĩa đồ lễ. Tiền lễ có thể được sử dụng đồng thời cùng đồ lễ nhưng cũng có thể được coi là một hình thức thay thế cho đồ lễ(Trịnh Thị Tuyết, 2017:58).
Đồ lễ được đặt vào đĩa thể hiện ý thức về sự dâng lễ của người đi lễ, để cầu xin một cái gì đó cho bản thân. Mâm lễ thể hiện tính mục đích cao của người đi lễ. Hương, hoa, quả, bánh, kẹo được dùng làm đồ lễ cơ bản thể hiện sự bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống của Phật giáo. Nhiều người đi lễ chùa chú trọng nhiều hơn việc đặt lễ tại ban Tam bảo.
Mỗi khi sắp lễ tôi thường chú ý ban Tam Bảo thờ Phật bao giờ cũng là to nhất nên nếu có chuẩn bị nhiều đồ lễ để bày các ban thì tôi thường sắp sửa cho ban Tam Bảo đẹp và trang trọng nhất.
(Nữ, 30 tuổi, nhân viên văn phòng)
Sự chú trọng đặt lễ tại ban Tam bảo thể hiện mục đích của người đi lễ chủ yếu mong cầu sự phù trợ từ Chư Phật. Tới chùa cúng Phật và họ đặt trọng tâm vào Phật. Họ tin rằng Phật che chở, mang lại cho họ sự bình an.
Việc sử dụng tiền mặt như một thứ đồ lễ chỉ mới xuất hiện trong thời kinh tế thị trường. Nó biểu hiện một quan niệm mới về đồ lễ. Tuy nhiên đây vẫn chỉ ở giai đoạn chuyển giao nên tiền mặt làm đồ lễ đôi khi còn bị lẫn lộn với tiền công đức. Tuy là loại hình đồ lễ mới nhưng nó được đông đảo người đi lễ hưởng ứng. Xuất phát từ nhu cầu này, trong các mặt hàng được bày bán tại các quầy hàng ngoài các mặt hàng thông thường thì giờ đây đã xuất hiện dịch vụ đổi tiền lẻ. Tại sao vậy? Do có quá nhiều hòm công đức, nhiều ban thờ tại cơ sở thờ tự khiến người đi lễ không thể đặt lễ tại tất cả các ban thờ nếu không phải là tiền lẻ. Một số thanh niên có nhận thức rất đúng đắt về hành vi sử dụng tiền lẻ trong khi đi lễ chùa. Hiện Giáo hội Phật giáo Việt Nam chưa có văn bản nào đề cập tới tính đúng sai của việc sử dụng tiền lẻ như một hình thức đồ lễ theo quan điểm Phật giáo. Thông thường tiền này được coi là tiền giọt dầu hay chính xác là chút tiền nhỏ minh chứng sự thành tâm tín đồ mong muốn nhờ nhà chùa sử dụng mua hương cúng Phật. Nếu theo nghĩa đó, tiền lẻ không phải là thứ đồ lễ mà nó phải được bỏ vào hòm công đức. Nhiều người đi lễ chùa hiện nay còn có hành vi nhét tiền vào tay tượng, gài lên đĩa hoa quả trên ban thờ, lấy tiền xoa vào tượng sau mang tiền đó để trong ví coi đó là hình thức cầu may, cầu tài… Tất cả những hành vi sử dụng tiền này chưa được quy định trong nghi lễ Phật giáo. Một số phật tử cho rằng hành vi đó là sai trái, không nên thực hiện.
Thường tôi đến cổng chùa mua hương hoa rồi vào lễ. Tôi không mua tiền vàng âm mà tôi bỏ tiền thật vào hòm công đức. Tại chùa ngày nay, người ta chen nhau để nhét tiền vào tay tượng, xoa bụng, xoa chân tay, xoa đầu tượng rồi xoa lên mặt mũi mình để mong cầu may mắn. Đó là những hành động bất kính và sai trái nhất.
(Nữ, 24 tuổi, tốt nghiệp đại học đang chờ việc)
Hành vi sử dụng tiền lẻ như một loại hình đồ lễ hay không bỏ tiền vào hòm công đức mà đặt trên ban thờ, cài vào tượng… thể hiện sự hướng tới các mục đích nhập thế của người đi lễ. Quan sát cho thấy, một só thanh niên vừa thực hiện bỏ tiền vào hòm công đức hay đặt tiền vào đĩa đựng tiền trên ban thờ, vừa cài tiền vào đĩa đồ lễ mang tới. Tiền được cài vào đĩa đồ lễ sau này được cầm về và coi đó là tiền lộc mang lại may mắn tài lộc cho cá nhân. Hành vi mang đồ lễ vào chùa, đặt đồ lễ trên ban thờ theo quan sát nữ thực hiện nhiều hơn nam.
Về cách thức hành lễ, hay trình tự thực hành đi lễ qua quan sát của chúng tôi cho thấy nhiều thanh niên đi lễ chùa chưa thực hiện đúng trình tự hành lễ quy định. Theo Thượng toạ Thích Thanh Duệ (2002: 194-195), thông thường cách thức hành lễ thực hiện theo năm bước (1) Đặt lễ vật, thắp hương làm lễ tại ban thờ Đức ông; (2) Đặt lễ lên chính điện, thắp hương, thỉnh ba hồi chuông; (3) Thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái đường (4) Lễ ở nhà thờ tổ, nhà Hậu; (5) Đến các nhà Trai giới, phòng tiếp khách hỏi thăm các vị sư, tăng trụ trì, cúng dường hoặc phát tâm công đức. Đa số thanh niên không biết về quy trình hành lễ này. Quy tắc cơ bản nhất là quy tắc đi vào chùa theo cửa nào hầu hết thanh niên đi lễ chùa không có hiểu biết đúng đắn theo quy định của nhà Phật. Cửa chùa, tam quan, không bao giờ được đi vào cửa chính. Theo quy định vào cửa bên phải ra cửa bên trái. Người đi lễ chùa thường không ý thức về quy tắc bước vào chùa, thuận thế nào là làm thế đó. “Vào trong chùa thì phải để giầy dép ở ngoài, tiện cửa nào mình vào cửa đấy” (nữ, 30 tuổi, nhân viên văn phòng). Không ý thức quy tắc cúng lễ khi vào chùa cho thấy thanh niên không chú trọng văn hóa Phật giáo, nguyên tắc ứng xử tại chùa. Họ đến chùa chỉ để thực hiện mục đích có sẵn của mình đó là cầu xin ở chư Phật phù hộ cho những mong cầu của cá nhân được thành hiện thực.
Đề cao quyền năng chư Phật còn được thế hiện trong cách thức thực hành nghi lễ cúng. Bằng quan sát, chúng tôi thấy rằng, thanh niên đi lễ chùa tại bất kỳ ban thờ nào đều có chung một dạng câu khấn: Con Na mô A Di Đà Phật, con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật… tên con là… con xin Phật phù hộ cho con được mạnh khỏe, công việc được tốt lành, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc… Tiếp đó có thể là những việc cụ thể như: xin được thi điểm cao kỳ thi học kỳ, xin được việc làm… Lời cầu khấn này thể hiện rất rõ các mục đích đi lễ đã phân tích ở trên. Mở đầu và trên hết, bao giờ cũng là sự cầu xin bình an, mạnh khỏe, hai yếu tố được coi là then chốt mang lại hạnh phúc cho con người. Kế đó những mục đích mưu cầu sự phù hộ cho những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày của bản thân và gia đình được bày tỏ với Chư Phật. Quan sát cho thấy, nữ thực hiện hành vi khấn nhiều hơn nam. Nhiều nam thanh niên chỉ thực hiện hành vi chắp tay đứng yên trước ban thờ Phật rồi lễ ba lễ.
- Một vài nhận xét
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tôn giáo của thanh niên
- Nhóm yếu tố cá nhân
Nhóm các yếu tố cá nhângiới, tuổi, trình độ học vấn là yếu tố tác động tạo nên sự khác biệt về hành vi tôn giáo thanh niên như đã phân tích ở phần trên. Trong phần này chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến các yếu tố: Nhu cầu tôn giáo cá nhân; và lòng mến mộ giáo lý tôn giáo cá nhân.
Nhu cầu tôn giáo là nhân tố trọng yếu đối với sự tồn tại và phát triển của tôn giáo. Nhu cầu tôn giáo cá nhân là một chỉ báo quan trọng thúc đẩy cá nhân thực hiện hành vi tôn giáo. Thực tế, kết quả khảo sát mức độ ảnh hưởng của nhu cầu tôn giáo đến việc thực hiện các hành vi tôn giáo, tín ngưỡng của thanh niên cũng cho thấy đây là một nhân tố có tác động mạnh. 67,4% thanh niên Phật giáo khẳng định nhu cầu tôn giáo cá nhân có ảnh hưởng nhiều đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của họ, trong khi đó tỉ lệ này ở nhóm không tôn giáo là 27,5%. Kiểm định Chi-squared cho kết quả p = 0,000. Như vậy có mối quan hệ tương quan giữa việc là tín đồ Phật giáo hay không là tín đồ Phật giáo và nhu cầu tôn giáo cá nhân với việc thực hiện các hành vi tôn giáo. Nhu cầu tôn giáo cá nhân chi phối mạnh đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của nhóm tín đồ Phật giáo hơn là nhóm không phải tín đồ tôn giáo.
Biểu: Mức độ ảnh hưởng của nhu cầu tôn giáo đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của thanh niên
Nguồn; Viện Xã hội học
Có sự khác biệt giữa các nhóm thanh niên về ảnh hưởng của nhu cầu tôn giáo cá nhân với việc thực hiện hành vi tôn giáo. Với Phật giáo, nhóm thanh niên nội thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm thanh niên ngoại thành; nhóm nam có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm nữ (khoảng chênh lệch lớn); nhóm tuổi 15-22 có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 23-29; hai nhóm trình độ học vấn có tỉ lệ tương đồng. Với thanh niên không tôn giáo, hai nhóm thanh niên nội thành và ngoại thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều chênh lệch không đáng kể; hai nhóm nam và nữ có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều thấp; nhóm tuổi 15-22 có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 23-29; nhóm trình độ học vấn từ THPT trở xuống có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm trên THPT.
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của nhu cầu tôn giáo cá nhân đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của các nhóm thanh niên
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 66 | 62 | 45 | 83 | 52 | 72 | 66 | 62 |
% | 70.2 | 64.6 | 75.0 | 63.8 | 73.2 | 65.5 | 67.3 | 67.4 | ||
Ít | N | 17 | 20 | 9 | 28 | 14 | 20 | 17 | 20 | |
% | 18.1 | 20.8 | 15.0 | 21.5 | 19.7 | 18.2 | 17.3 | 21.7 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 11 | 14 | 6 | 19 | 5 | 18 | 15 | 10 | |
% | 11.7 | 14.6 | 10.0 | 14.6 | 7.0 | 16.4 | 15.3 | 10.9 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn giáo | Nhiều | N | 28 | 27 | 22 | 33 | 33 | 22 | 41 | 14 |
% | 28.0 | 27.0 | 26.2 | 28.4 | 30.3 | 24.2 | 30.1 | 21.9 | ||
Ít | N | 40 | 25 | 21 | 44 | 32 | 33 | 39 | 26 | |
% | 40.0 | 25.0 | 25.0 | 37.9 | 29.4 | 36.3 | 28.7 | 40.6 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 32 | 48 | 41 | 39 | 44 | 36 | 56 | 24 | |
% | 32.0 | 48.0 | 48.8 | 33.6 | 40.4 | 39.6 | 41.2 | 37.5 |
Nguồn: Viện Xã hội học
Cùng với nhu cầu tôn giáo cá nhân, lòng mến mộ giáo lý tôn giáo cũng là một nhân tốt tích cực thúc đẩy các cá nhân thực hiện hành vi tôn giáo. 72,2% thanh niên Phật giáo khẳng định lòng mến mộ giáo lý tôn giáo có ảnh hưởng nhiều đến hành vi tôn giáo của họ, trong khi đó, tỉ lệ này ở nhóm không tôn giáo là 24,5%. Kiểm định Chi-squared cho kết quả p = 0,000 khẳng định hai biến có sự tương quan.
Biểu: Mức độ ảnh hưởng của lòng mến mộ giáo lý tôn giáo đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của thanh niên
Có sự khác biệt giữa các nhóm thanh niên là tín đồ Phật giáo và thành niên không phải là tín đồ tôn giáo về mức độ ảnh hưởng của lòng mến mộ giáo lý tôn giáo với việc thực hiện hành vi tôn giáo.Với Phật giáo, nhóm thanh niên nội thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm thanh niên ngoại thành (khoảng cách chênh lệch lớn); nam có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nữ; nhóm tuổi 15-22 có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 23-29; hai nhóm trình độ học vấn có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều chênh lệch rất thấp. Với thanh niên không tôn giáo, hai nhóm thanh niên nội thành và ngoại thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều chênh lệch thấp; nữ có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nam; nhóm tuổi 15-22 có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 23-29; nhóm trình độ học vấn từ THPT trở xuống có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm trình độ trên THPT (khoảng chênh lệch lớn).
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của lòng mến mộ giáo lý tôn giáo với việc thực hiện hành vi tôn giáo, tín ngưỡng của các nhóm thanh niên
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 72 | 65 | 46 | 91 | 54 | 79 | 70 | 67 |
% | 76.6 | 67.7 | 76.7 | 70.0 | 76.1 | 71.8 | 71.4 | 72.8 | ||
Ít | N | 13 | 20 | 12 | 21 | 9 | 20 | 16 | 17 | |
% | 13.8 | 20.8 | 20.0 | 16.2 | 12.7 | 18.2 | 16.3 | 18.5 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 9 | 11 | 2 | 18 | 8 | 11 | 12 | 8 | |
% | 9.6 | 11.5 | 3.3 | 13.8 | 11.3 | 10.0 | 12.2 | 8.7 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn giáo | Nhiều | N | 26 | 23 | 18 | 31 | 29 | 20 | 37 | 12 |
% | 26.0 | 23.0 | 21.4 | 26.7 | 26.6 | 22.0 | 27.2 | 18.8 | ||
Ít | N | 38 | 26 | 26 | 38 | 33 | 31 | 40 | 24 | |
% | 38.0 | 26.0 | 31.0 | 32.8 | 30.3 | 34.1 | 29.4 | 37.5 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 36 | 51 | 40 | 47 | 47 | 40 | 59 | 28 | |
% | 36.0 | 51.0 | 47.6 | 40.5 | 43.1 | 44.0 | 43.4 | 43.8 |
Nguồn: Viện Xã hội học
- Nhóm yếu tố gia đình
Thế giới đang diễn ra những biến động to lớn, những tác động nhiều chiều của xu thế toàn cầu hóa, quá trình giao lưu văn hóa thời hiện đại đang đặt thanh niên trước những đòi hỏi, thách thức mới. Nhiều thanh niên Việt Nam hiện có những biểu hiện của lối sống tiêu cực như buông thả bản thân, ích kỷ, thờ ơ, thiếu trách nhiệm, hành xử bạo lực… Xu hướng thanh niên rơi vào tệ nạn xã hội và phạm tội có chiều hướng gia tăng. Tôn giáo, tín ngưỡng hiện là một trong những nhân tố định hướng thanh niên đến với những lối sống tích cực, thực hiện những hành vi thiện. Đạo đức tôn giáo luôn hướng cá nhân trở thành một người hướng thiện, có nhân cách tốt, có lối sống vị tha, chia sẻ với mọi người, có tinh thần trách nhiệm với xã hội. Hiện nay, xu thế thanh niên thực hiện các hành vi tôn giáo, thực hành áp dụng giáo lý tôn giáo vào cuộc sống có chiều hướng gia tăng. Đây là chỉ báo tích cực để tôn giáo thực sự phát huy những giá trị tốt đẹp của mình trong đời sống xã hội.
Có nhiều yếu tố tác động đến hành vi, lối sống của thanh niên trong đó, gia đình là một yếu tố quan trọng. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng đầu tiên, là môi trường xã hội quan trọng, là nơi mà các tương tác xã hôi xảy ra hàng ngày đối với mỗi cá nhân trong đó có thanh niên. Gia đình là nơi nuôi dưỡng con người cả về thể chất và tinh thần. Gia đính có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và trao truyền các giá trị truyền thống, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, các chuẩn mực xã hội…
Truyền thống gia đình là một yếu tố quan trọng tác động đến hành vi tôn giáo của thanh niên. Truyền thống gia đình có ảnh hưởng mạnh đến nhóm thanh niên không tôn giáo nhiều hơn Phật giáo.
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của yếu tố truyền thống gia đình đến thanh niên
Mức độ | Phật giáo | Không tôn giáo | |
Nhiều | N | 90 | 114 |
% | 47.4 | 57.0 | |
Ít | N | 63 | 60 |
% | 33.2 | 30.0 | |
Không ảnh hưởng gì | N | 37 | 26 |
% | 19.5 | 13.0 |
Nguồn: Viện Xã hội học
Mức độ ảnh hưởng của yếu tố truyền thống gia đình đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của các nhóm thanh niên trong các tôn giáo cũng có sự khác biệt.Với Phật giáo, ngược lại với Công giáo, nhóm thanh niên ngoại thành có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm thanh niên nội thành; nhóm nam có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nữ; hai nhóm tuổi có mức độ tương đồng; nhóm có trình độ học vấn từ THPT trở xuống có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm trên THPT. Với thanh niên không tôn giáo, nhóm thanh niên nội thành có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm ngoại thành; nhóm nam có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm nữ; nhóm tuổi 23-29 có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 15-22; hai nhóm trình độ học vấn có mức độ ảnh hưởng nhiều tương đồng.
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của yếu tố truyền thống gia đình đến thực hiện hành vi tôn giáo của các nhóm thanh niên
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 37 | 53 | 30 | 60 | 33 | 52 | 50 | 40 |
% | 39.4 | 55.2 | 50.0 | 46.2 | 46.5 | 47.3 | 51.0 | 43.5 | ||
Ít | N | 38 | 25 | 21 | 42 | 23 | 36 | 27 | 36 | |
% | 40.4 | 26.0 | 35.0 | 32.3 | 32.4 | 32.7 | 27.6 | 39.1 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 19 | 18 | 9 | 28 | 15 | 22 | 21 | 16 | |
% | 20.2 | 18.8 | 15.0 | 21.5 | 21.1 | 20.0 | 21.4 | 17.4 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn giáo | Nhiều | N | 59 | 55 | 52 | 62 | 60 | 54 | 78 | 36 |
% | 59.0 | 55.0 | 61.9 | 53.4 | 55.0 | 59.3 | 57.4 | 56.3 | ||
Ít | N | 29 | 31 | 20 | 40 | 34 | 26 | 38 | 22 | |
% | 29.0 | 31.0 | 23.8 | 34.5 | 31.2 | 28.6 | 27.9 | 34.4 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 12 | 14 | 12 | 14 | 15 | 11 | 20 | 6 | |
% | 12.0 | 14.0 | 14.3 | 12.1 | 13.8 | 12.1 | 14.7 | 9.4 |
Nguồn: Viện Xã hội học
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của mỗi cá nhân. Một trong những điểm nổi bật của gia đình là giáo dục dựa trên nền tảng tình thương yêu giữa các thành viên dành cho nhau, đặc biệt là tình cảm của bố mẹ dành cho con cái. Quá trình giáo dục gia đình diễn ra thường xuyên, liên tục, tác động vào các chiều cạnh khác nhau của quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Giáo dục gia đình vì vậy có ảnh hưởng nhất định đến hành vi tôn giáo của thanh niên.Nhận định về mức độ ảnh hưởng của yếu tố giáo dục gia đình đến việc thực hiện các hành vi tôn giáo của thanh niên không có sự khác biệt lớn giữa nhóm thanh niên Phật giáo và thanh niên không tôn giáo, tuy nhiên giữa các nhóm thanh niên thì có sự khác biệt. Với thanh niên Phật giáo, nhóm ngoại thành có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm nội thành (khoảng chênh lệch lớn); nhóm nam có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nữ; nhóm tuổi 15-22 có mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm 23-29 (khoảng chênh lệch lớn); nhóm trình độ từ THPT trở xuống có mức độ ảnh hưởng cao hơn nhóm trên THPT (khoảng chênh lệch lớn). Với thanh niên không tôn giáo, nhóm nội thành có mức ảnh hưởng cao hơn ngoại thành; hai nhóm nam nữ có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều tương đương; hai nhóm tuổi và hai nhóm trình độ học vấn có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều khác biệt không đáng kể.
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của giáo dục gia đình đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của các nhóm thanh niên
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 41 | 50 | 31 | 60 | 38 | 46 | 51 | 40 |
% | 43.6 | 52.1 | 51.7 | 46.2 | 53.5 | 41.8 | 52.0 | 43.5 | ||
Ít | N | 35 | 27 | 19 | 43 | 24 | 36 | 28 | 34 | |
% | 37.2 | 28.1 | 31.7 | 33.1 | 33.8 | 32.7 | 28.6 | 37.0 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 18 | 19 | 10 | 27 | 9 | 28 | 19 | 18 | |
% | 19.1 | 19.8 | 16.7 | 20.8 | 12.7 | 25.5 | 19.4 | 19.6 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn giáo | Nhiều | N | 50 | 45 | 40 | 55 | 51 | 44 | 64 | 31 |
% | 50.0 | 45.0 | 47.6 | 47.4 | 46.8 | 48.4 | 47.1 | 48.4 | ||
Ít | N | 29 | 33 | 27 | 35 | 35 | 27 | 40 | 22 | |
% | 29.0 | 33.0 | 32.1 | 30.2 | 32.1 | 29.7 | 29.4 | 34.4 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 21 | 22 | 17 | 26 | 23 | 20 | 32 | 11 | |
% | 21.0 | 22.0 | 20.2 | 22.4 | 21.1 | 22.0 | 23.5 | 17.2 |
Nguồn: Viện Xã hội học
Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình hay hoàn cảnh gia đình cũng là những nhân tố tác động đến hành vi tôn giáo thanh niên. Không có sự khác biệt đáng kể về ảnh hưởng của mối quan hệ gia đình hay hoàn cảnh gia đình giữa hai nhóm thanh niên Phật giáo và thanh niên không tôn giáo đến việc thực hiện hành vi tôn giáo.
- Nhóm các yếu tố xã hội
Hành vi cá nhân, trong đó có hành vi tôn giáo chịu nhiều tác động từ các yếu tố xã hội.Có rất nhiều yếu tố xã hội có thể tác động đến việc thực hành hành vi tín ngưỡng, tôn giáo của thanh niên, tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố xã hội như: quan điểm, lối sống của người Việt Nam; phong tục, tập quán của người Việt Nam; đời sống quan hệ xã hội; và xu thế chung của bạn bè, xã hội.
Lối sống gồm toàn bộ các mô hình, cách thức và phong thái sống của cá nhân thể hiện trong các lĩnh vực từ hoạt động sản xuất, kinh tế, sinh hoạt đến thái độ, hành vi và ứng xử giữa con người với con người. Lối sống hàm chứa những đặc điểm cuộc sống của các cá nhân, nhóm người, dân tộc trong một xã hội nhất định. Lối sống người Việt Nam được hình thành từ các điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, tâm lý và văn hóa dân tộc Việt Nam. Lối sống người Việt Nam vì thế ẩn chứa các đặc điểm của truyền thống dân tộc mang bản sắc con người và văn hóa Việt Nam. Trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế, các giá trị của toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới lối sống của con người Việt Nam, tạo ra những chuyển biến quan trọng. Bên cạnh những chiều cạnh tích cực của lối sống con người Việt Nam hiện đại là nhiều biểu hiện tiêu cực dẫn đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng như suy giảm niềm tin xã hội, suy thoái đạo đức…
Lối sống bao gồm cách thức và phong thái sống, vì vậy nó hàm chứa trong đó cả các cách thức mà cá nhân ứng xử với tôn giáo. Do vậy, lối sống là một biến số ảnh hưởng tới hành vi tôn giáo cá nhân. Không có sự khác biệt đáng kể giữa thanh niên Phật giáo và thanh niên không tôn giáo về mức độ ảnh hưởng của quan điểm, lối sống của người Việt Nam đến việc thực hiện hành vi tôn giáo cá nhân.
Biểu: Mức độ ảnh hưởng của quan điểm, lối sống của người Việt Nam đến việc thực hiện hành vi tôn giáo cá nhân
Nguồn: Viện Xã hội học
Có sự khác biệt giữa các nhóm thanh niên trong các tôn giáo về ảnh hưởng của quan điểm, lối sống người Việt Nam đến việc thực hiện hành vi tôn giáo.Với Phật giáo, nhóm thanh niên ngoại thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm thanh niên nội thành; nam nữ có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều tương đồng; nhóm tuổi 15-22 có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 23-29 (khoảng chênh lệch lớn); nhóm trình độ học vấn trên THPT có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm trình độ từ THPT trở xuống (khoảng chênh lệch lớn). Với thanh niên không tôn giáo, nhóm thanh niên ngoại thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn thanh niên nội thành; nam có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nữ (khoảng chênh lệch thấp); nhóm tuổi 23-29 có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 15-22 (khoảng chênh lệch thấp); nhóm trình độ học vấn trên THPT có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm từ THPT trở xuống (khoảng chênh lệch cao).
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của quan điểm, lối sống người Việt Nam đến việc thực hiện hành vi tôn giáo, tín ngưỡng các nhóm thanh niên
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 43 | 58 | 31 | 70 | 47 | 51 | 50 | 51 |
% | 45.7 | 60.4 | 51.7 | 53.8 | 66.2 | 46.4 | 51.0 | 55.4 | ||
Ít | N | 36 | 23 | 21 | 38 | 14 | 39 | 30 | 29 | |
% | 38.3 | 24.0 | 35.0 | 29.2 | 19.7 | 35.5 | 30.6 | 31.5 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 15 | 15 | 8 | 22 | 10 | 20 | 18 | 12 | |
% | 16.0 | 15.6 | 13.3 | 16.9 | 14.1 | 18.2 | 18.4 | 13.0 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn giáo | Nhiều | N | 49 | 54 | 46 | 57 | 57 | 46 | 71 | 32 |
% | 49.0 | 54.0 | 54.8 | 49.1 | 52.3 | 50.5 | 52.2 | 50.0 | ||
Ít | N | 34 | 28 | 22 | 40 | 33 | 29 | 39 | 23 | |
% | 34.0 | 28.0 | 26.2 | 34.5 | 30.3 | 31.9 | 28.7 | 35.9 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 17 | 18 | 16 | 19 | 19 | 16 | 26 | 9 |
Nguồn: Viện Xã hội học
Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống được hình thành trong quá trình lịch sử có tính chất ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ nhưng cũng không tùy tiện. Phong tục là tập quán xã hội tương đối bền vững và thống nhất. Phong tục, tập quán là một yếu tố hình thành những cơ chế phi chính thức áp chế hành động cá nhân ở mọi lĩnh vực trong đó có tôn giáo.Không có sự khác biệt đáng kể giữa thanh niên Phật giáo và thanh niên không tôn giáo về mức độ ảnh hưởng của phong tục tập quán đến việc thực hiện hành vi tôn giáo cá nhân.
Có sự khác biệt rõ rệt trong một số nhóm thanh niên theo các tôn giáo về đánh giá mức độ ảnh hưởng của phong tục, tập quán người Việt Nam đối với việc thực hiện hành vi tôn giáo.Với Phật giáo, nhóm thanh niên ngoại thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm nội thành (khoảnh chênh lệch lớn); hai nhóm nam và nữ có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều chênh lệch thấp; nhóm tuổi 15-22 có tỉ lệ nhận định mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 23-29 (khoảng chênh lệch lớn); nhóm trình độ học vấn trên THPT có tỉ lệ nhận định mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm từ THPT trở xuống. Với thanh niên không tôn giáo, nhóm thanh niên ngoại thành có tỉ lệ nhận định mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm nội thành; nam có tỉ lệ nhận định mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nữ; hai nhóm tuổi và hai nhóm trình độ học vấn có tỉ lệ nhận định mức độ ảnh hưởng nhiều chênh lệch thấp.
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 43 | 58 | 31 | 70 | 47 | 51 | 50 | 51 |
% | 45.7 | 60.4 | 51.7 | 53.8 | 66.2 | 46.4 | 51.0 | 55.4 | ||
Ít | N | 36 | 23 | 21 | 38 | 14 | 39 | 30 | 29 | |
% | 38.3 | 24.0 | 35.0 | 29.2 | 19.7 | 35.5 | 30.6 | 31.5 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 15 | 15 | 8 | 22 | 10 | 20 | 18 | 12 | |
% | 16.0 | 15.6 | 13.3 | 16.9 | 14.1 | 18.2 | 18.4 | 13.0 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn
giáo |
Nhiều | N | 49 | 54 | 46 | 57 | 57 | 46 | 71 | 32 |
% | 49.0 | 54.0 | 54.8 | 49.1 | 52.3 | 50.5 | 52.2 | 50.0 | ||
Ít | N | 34 | 28 | 22 | 40 | 33 | 29 | 39 | 23 | |
% | 34.0 | 28.0 | 26.2 | 34.5 | 30.3 | 31.9 | 28.7 | 35.9 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 17 | 18 | 16 | 19 | 19 | 16 | 26 | 9 | |
% | 17.0 | 18.0 | 19.0 | 16.4 | 17.4 | 17.6 | 19.1 | 14.1 |
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của phong tục, tập quán người Việt Nam đến việc thực hiện hành vi tôn giáo, tín ngưỡng của các nhóm thanh niên
Nguồn: Viện Xã hội học
Xu thế chung của xã hội, của bạn bè là một nhân tố ảnh hưởng đến hành vi cá nhân. Hiệu ứng tâm lý đám đông chi phối mạnh mẽ nhiều hành vi cá nhân hướng tới xu thế chung. Tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội (hay tâm lý đám đông) thoạt nhìn có thể thấy có nhiều đối lập, tuy nhiên, nếu xem xét kỹ, chúng cũng có những giá trị tương đồng. Cá nhân luôn có mong muốn hội nhập vào đám đông có tính cách một “đám đông tâm lý” bởi vậy đám đông có sức ảnh hưởng nhất định trong một vài chiều cạnh là mạnh mẽ đến đời sống cá nhân, định hướng hành vi cá nhân. Các nhân với các đặc điểm xã hội khác nhau với việc tham gia vào đám đông đã tạo ra một dạng tinh thần tập thể, buộc họ suy nghĩ, hành động khác với lúc cá nhân đó đứng tách riêng. Theo Freud, “ một số tư tưởng và tình cảm chỉ xuất hiện và biến thành hành động khi người ta tụ tập vào đám đông. Đám đông tâm lý là một cơ thể lâm thời, được tạo ra từ những thành phần khác nhau, nhất thời gắn kết đó tạo ra một thực thể mới có những tính chất hoàn toàn khác với tính chất của các tế bào riêng lẻ”[6]
Hành vi tôn giáo cá nhân do vậy, chịu ảnh hưởng nhất định của tâm lý đám đông.Thanh niên Phật giáo có mức độ ảnh hưởng của các yếu tố xu thế chung của xã hội, bạn bè đến việc thực hiện hành vi tôn giáo cao hơn so với thanh niên không tôn giáo. Có sự khác biệt giữa các nhóm thanh niên về mức độ ảnh hưởng của xu thế chung xã hội, bạn bè đến việc thực hiện hành vi tôn giáo. Với Phật giáo, hai nhóm giới trẻ nội thành và ngoại thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều tương đồng; nam có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nữ (khoảng chênh lệch lớn); hai nhóm tuổi có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều chênh lệch thấp; nhóm trình độ học vấn từ THPT trở xuống có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm trên THPT. Với giới trẻ không tôn giáo, nhóm giới trẻ ngoại thành có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nội thành; hai nhóm nam và nữ có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều tương đồng; nhóm tuổi 15-22 có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm tuổi 23-29; nhóm trình độ học vấn từ THPT trở xuống có tỉ lệ mức độ ảnh hưởng nhiều cao hơn nhóm trên THPT.
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của xu thế chung xã hội, bạn bè đến việc thực hiện hành vi tôn giáo các nhóm giới trẻ
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 24 | 24 | 22 | 26 | 19 | 27 | 33 | 15 |
% | 25.5 | 25.0 | 36.7 | 20.0 | 26.8 | 24.5 | 33.7 | 16.3 | ||
Ít | N | 41 | 40 | 26 | 55 | 28 | 50 | 33 | 48 | |
% | 43.6 | 41.7 | 43.3 | 42.3 | 39.4 | 45.5 | 33.7 | 52.2 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 29 | 32 | 12 | 49 | 24 | 33 | 32 | 29 | |
% | 30.9 | 33.3 | 20.0 | 37.7 | 33.8 | 30.0 | 32.7 | 31.5 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn
giáo |
Nhiều | N | 11 | 15 | 11 | 15 | 18 | 8 | 20 | 6 |
% | 11.0 | 15.0 | 13.1 | 12.9 | 16.5 | 8.8 | 14.7 | 9.4 | ||
Ít | N | 45 | 23 | 30 | 38 | 32 | 36 | 44 | 24 | |
% | 45.0 | 23.0 | 35.7 | 32.8 | 29.4 | 39.6 | 32.4 | 37.5 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 44 | 62 | 43 | 63 | 59 | 47 | 72 | 34 | |
% | 44.0 | 62.0 | 51.2 | 54.3 | 54.1 | 51.6 | 52.9 | 53.1 |
Nguồn: Viện Xã hội học
Quan hệ xã hội là yếu tố ảnh hưởng đến nhiều hành vi cá nhân trong đó có hành vi tôn giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của yếu tố này đến việc thực hiện hành vi tôn giáo, tín ngưỡng của thanh niên là không mạnh. Thanh niên Phật giáo là nhóm chịu ảnh hưởng của đời sống quan hệ xã hội đến việc thực hiện hành vi tôn giáo cá nhân với tỉ lệ 22,6% khẳng định mức độ ảnh hưởng nhiều và 45,3% khẳng định mức độ ảnh hưởng ít. Thanh niên không tôn giáo là nhóm chịu ảnh hưởng đáng kể của đời sống quan hệ xã hội đến việc thực hiện hành vi tôn giáo cá nhân, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng thấp hơn so với thanh niên Phật giáo với tỉ lệ khẳng định mức độ ảnh hưởng nhiều là 16,5% và mức độ ảnh hưởng ít là 40,5%.
Các nhóm thanh niên ở các tôn giáo khác nhau có mức độ chịu ảnh hưởng của đời sống quan hệ xã hội đến việc thực hiện hành vi tôn giáo khác nhau.Với Phật giáo, nhóm giới trẻ nội thành có tỉ lệ ảnh hưởng (bao gồm ảnh hưởng nhiều và ảnh hưởng ít) cao hơn giới trẻ ngoại thành; nam có tỉ lệ ảnh hưởng (bao gồm ảnh hưởng nhiều và ảnh hưởng ít) cao hơn nữ; nhóm tuổi 23-29 có tỉ lệ ảnh hưởng (bao gồm ảnh hưởng nhiều và ảnh hưởng ít) cao hơn nhóm tuổi 15-22; hai nhóm trình độ học vấn có tỉ lệ ảnh hưởng (bao gồm ảnh hưởng nhiều và ảnh hưởng ít) tương đương. Với giới trẻ không tôn giáo, hai nhóm giới trẻ nội thành và ngoại thành; nam và nữ, hai nhóm tuổi có tỉ lệ chênh lệch thấp; nhóm có trình độ học vấn trên THPT có tỉ lệ ảnh hưởng (bao gồm ảnh hưởng nhiều và ảnh hưởng ít) cao hơn nhóm từ THPT trở xuống.
Bảng: Mức độ ảnh hưởng của đời sống quan hệ xã hội đến việc thực hiện hành vi tôn giáo của các nhóm thanh niên
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Phật giáo | Nhiều | N | 21 | 22 | 11 | 32 | 20 | 21 | 25 | 18 |
% | 22.3 | 22.9 | 18.3 | 24.6 | 28.2 | 19.1 | 25.5 | 19.6 | ||
Ít | N | 46 | 40 | 35 | 51 | 26 | 55 | 42 | 44 | |
% | 48.9 | 41.7 | 58.3 | 39.2 | 36.6 | 50.0 | 42.9 | 47.8 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 27 | 34 | 14 | 47 | 25 | 34 | 31 | 30 | |
% | 28.7 | 35.4 | 23.3 | 36.2 | 35.2 | 30.9 | 31.6 | 32.6 | ||
Mức độ |
Nội thành | Ngoại thành | Nam | Nữ | 15-22 | 23-29 | Từ THPT trở xuống | Trên THPT | ||
Không tôn giáo | Nhiều | N | 10 | 23 | 15 | 18 | 21 | 12 | 25 | 8 |
% | 10.0 | 23.0 | 17.9 | 15.5 | 19.3 | 13.2 | 18.4 | 12.5 | ||
Ít | N | 48 | 33 | 32 | 49 | 40 | 41 | 49 | 32 | |
% | 48.0 | 33.0 | 38.1 | 42.2 | 36.7 | 45.1 | 36.0 | 50.0 | ||
Không ảnh hưởng gì | N | 42 | 44 | 37 | 49 | 48 | 38 | 62 | 24 | |
% | 42.0 | 44.0 | 44.0 | 42.2 | 44.0 | 41.8 | 45.6 | 37.5 |
Nguồn: Viện Xã hội học
- Kết luận
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã tìm hiểu về tác động tích của tôn giáo đối với đời sống thế tục của người dân, được thể hiện cụ thể qua hành vi đi lễ chùa thanh niên, bao gồm cả thanh niên là phật tử lẫn thanh niên không theo tôn giáo. Kết quả nghiên cứu có thể được tóm tắt như sau:
Về nguyên nhân đi lễ: chức năng an định tinh thần của tôn giáo được thể hiện rõ nét đối với nhóm thanh niên là phật tử (họ đến để cầu xin sức khỏe, may mắn… ); Còn nhóm thanh niên đi không là phật tử đi lễ do ảnh hưởng của trào lưu xã hội và do bạn bè rủ rê chiếm phần lớn.
Về mục đích đi lễ: những thanh niên đến chùa chủ yếu là để hướng đến những giá trị trần thế và thế tục, điều này thể hiện tính thế tục của Phật giáo trong xã hội hiện đại: Phật giáo hòa nhập vào xã hội, và đáp ứng nhu cầu của cuộc sống trần thế cho các tín đồ. Tuy nhiên, những thanh niên là phật tử thì chủ yếu là cầu nguyện cho sức khỏe và sự bình an, tức là những yếu tố có tính chất tinh thần; còn những thanh niên không theo tôn giáo thì đa phần cầu nguyện cho có nhiều tài lộc và may mắn, tức những yếu tố thiên về tính vật chất. Bên cạnh đó, cũng có những thanh niên đến chùa hành lễ vì mến và tin vào đạo Phật, vì mong được Phật độ, hoặc để tìm hiểu về giáo lý của đức Phật.
Về cách thức đi lễ: Đa số các thanh niên đi lễ ở chùa đều có ý thức ăn vận trang phục lịch sự, kín đáo, thể hiện sự tôn kính đối với tam bảo. Lễ vật của họ gồm có hoa, quả, vàng mã, tiền âm phủ, và đặc biệt là tiền lẻ được đặt lên như một phần của lễ vật, và đồng thời cũng là tiền công đức. Đáng chú ý là đa số thanh niên không hiểu biết đúng về trình tự hành lễ tại chùa: vào cửa nào, ra cửa nào, lễ ở ban nào trước v.v… nên không hành lễ một cách đúng đắn.
Về những yếu tố tác động đến hành vi đi lễ của thanh niên, thì nhóm tác giả có nhận xét như sau:
Ở góc độ cá nhân, thanh niên đi lễ chùa là vì họ có nhu cầu tôn giáo cá nhân và vì lòng mến mộ giáo lý tôn giáo. Hai yếu tố này tác động mạnh nhất là đối với thanh niên là phật tử, và tác động đến nam thanh niên, các thanh niên ở nội thành mạnh hơn là đối với nữ thanh niên, và các thanh niên ở ngoại thành.
Ở góc độ gia đình, thanh niên đi lễ chùa còn là do truyền thống gia đình chi phối. Lý do này tác động mạnh hơn đến nhóm thanh niên không tôn giáo, thanh niên ở ngoại thành, nam thanh niên, thanh niên tuổi dưới 23, và những thanh niên có trình độ học vấn từ THPT trở xuống so với những thanh niên nội thành, thanh niên trên 23 tuổi, và thanh niên có trình độ học vấn từ THPT trở lên.
Ở góc độ xã hội, các yếu tố lối sống, phong tục, bạn bè có xu hướng tác động nhiều hơn đến những thanh niên ngoại thành, nam thanh niên, những thanh niên có trình độ dưới THPT. Đặc biệt là sự rủ rê của bạn bè và phong tục tác động mạnh hơn đến nhóm thanh niên không tôn giáo so với những thanh niên là phật tử.
Những kết quả này cho phép chúng ta sơ bộ kết luận rằng ở những thanh niên là phật tử, và ở nội thành hành vi đi lễ là do sự chi phối của nhu cầu tôn giáo cá nhân chiếm tỉ trọng lớn hơn; những thanh niên không tôn giáo khi đi lễ bị chi phối nhiều hơn bởi những yếu tố như truyền thống gia đình, lối sống, bạn bè… Con những thanh niên ở ngoại thành và không tôn giáo thì đi lễ đối với họ mang tính chất truyền thống, lối sống nhiều hơn.
Hiểu rõ hơn về những yếu tố tác động đến hành vi đi lễ của thanh niên phật tử Hà Nội hiện nay, chúng ta có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về tác động của tôn giáo đối với đời sống của người dân trong xã hội nói chung, và trong xã hội hiện đại nói riêng.
[3] Viện Nghiên cứu tôn giáo, Đại học Trung Sơn, Trung Quốc, Đời sống tôn giáo ở Việt Nam và Trung Quốc, nxb Từ điển bách khoa, 2011, tr 38.
[4]James C. Livingston, Religious pluralism and the question of religious trust in Wilfred C. Smith, JCRT, 8-2003.
[5]Diana L. Eck, Thách thức của đa dạng tôn giáo, Nieman Reports “God in the Newsroom” Issue, Vol. XLVII, No. 2, Summer 1993.
[6]Sigmund Freuud, Tâm lý đám đông và phân tích cái tôi, Phạm Minh Ngọc dịch, http://downloadsach.com/, down ngày 14/5/2018, tr6.