PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương
Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Đặt vấn đề
Phật giáo Việt Nam Thời Trần với sự xuất hiẹn của Thiền phái Trúc Lâm đạt đến đỉnh cao trên nhiều lĩnh vực. Thiền Trúc Lâm để lại cho Phật giáo Việt Nam những di sản vô giá về thiền học, thiền giáo, về tư tưởng nhập thế, về dung thông tam giáo, về hội nhập với tín ngưỡng dân gian, về tổ chức giáo hội.
Thiền Trúc Lâm đến đệ tam tổ, Huyền Quang (1254 – 1334) thì tàn lụi. Đó cũng là thời điểm Nhà Trần bắt đầu suy vi để rồi sụp đổ, nhường vũ đài chính trị cho một triều đại mới – Nhà Hồ, sau đó là Hậu Lê. Phật giáo từ cuối Nhà Trần đặc biệt sang thời Lê đã lui về làng xã.
Song, có phải Phật giáo Trúc Lâm thời Trần tàn lụi và vắng bóng hẳn cùng với sự sụp đổ của Nhà Trần. Nếu Phật giáo Trúc Lâm thời Trần vẫn còn hiện diện những giai đoạn tiếp theo và cho tận đến ngày nay thì tồn tại và hiện diện như thế nào, ở những lĩnh vực nào? Bài viết bước đầu trả lời các câu hỏi trên qua một số vấn đề nghiên cứu sau đây:
Những giá trị của Thiền Phật giáo Trúc Lâm
Thiền sư Chân Nguyên với việc phục hưng Thiền Phật giáo Trúc Lâm.
Trúc Lâm với phong trào chấn hưng Phật giáo nhìn từ phương diện tổ chức giáo hội.
Thiền Trúc Lâm từ cuối thế kỷ XX đến nay.
Những giá trị của Thiền Phật giáo Trúc Lâm
Năm 1225 nhà Trần bước lên vũ đài chính trị lãnh đạo dân tộc Việt Nam. Triều Trần là triều đại xây dựng nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền vững mạnh. Với ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, Nhà Trần ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam những võ công hiển hách rạng ngời. Các nhà nghiên cứu cho rằng một trong những nền tảng tạo nên võ công, văn trị của Nhà Trần có vai trò Phật giáo. Dưới thời Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển đến đỉnh cao của thời kỳ Đại Việt thể hiện bởi Thiền phái Trúc Lâm.
Về nguyên nhân sâu sa, Thiền phái Trúc Lâm kế thừa các thiền phái Phật giáo giai đoạn trước đó như Ti ni đa lưu chi, vô Ngôn Thông, Thảo Đường. Ba Thiền phái này được hợp nhất không phải về hình thức mà là sự chắt lọc tinh hoa của mỗi thiền phái.
Với Thiền phái Tì ni đa lưu chi là sự kế thừa “tinh thần bất lập văn tự những vẫn chú trọng sự nghiên cứu kinh luận, chủ trương thực tại siêu việt không hữu, chú trọng việc truyền thụ tâm ấn, có khuynh hướng nhập thế giúp dân”([2]).
Với Thiền phái Vô Ngôn Thông là sự kế thừa “chủ trương đốn ngộ và vô đắc” đồng thời là tư tưởng “gần gũi với đời sống xã hội, tham dự vào đời sống nhập thế trong khi vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập của mình” ([3]).
Thiền Trúc Lâm kế thừa Thiền phái Thảo Đường là chủ trương dung hợp giữa Phật giáo và Nho giáo, nhắm tới sự hoằng dương Thiền học trong giới trí thức, đưa Nho giáo đến gần đạo Phật và trở nên Phật tử([4]).
Thiền học Trúc Lâm còn là sự kế thừa tư tưởng của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Đây là “hai cư sĩ đặc biệt có nhiều tác phẩm và ảnh hưởng trực tiếp đến Trúc Lâm đệ nhất tổ. Thông thường vẫn xếp hai cư sĩ đó vào tông Trúc Lâm. Xét về mặt tư tưởng Phật giáo thì đúng thế, nhưng xét về tổ chức sơn môn thì họ thuộc về tiền Trúc Lâm”([5]).
Trần Thái Tông (1218-1277), tức Trần Cảnh, vị vua đầu tiên của Nhà Trần, năm 20 tuổi có ý định đi tu ở non thiêng Yên Tử, được Trần Thủ Độ đưa về triều. Thông qua các trước tác mà Vua để lại, hẳn là Trúc Lâm đã kế thừa tư tưởng “tam giáo, mà thứ tự ưu tiên là Phật – Khổng – Đạo. Tư tưởng Phật giáo thì Bát Nhã hơn Thiền tông. Cách lý giải kinh Phật nhiều điểm khác người xưa, chứng tỏ có tư duy độc lập… không nô lệ vào cách giải thích đã có”[6].
Những tư tưởng mà Tuệ Trung Thượng Sĩ để lại cho Thiền Trúc Lâm mà hết sức to lớn: “khác với Trần Thái Tông khuyên giới, định, tuệ, Tuệ Trung khuyên tự nhận thức Phật (Dì Đà) trong tâm mình, nơi nào cũng là pháp thân… Trí tuệ mới là con đường giải thoát. Nhờ trí tuệ nhận thức được nhất thiết giai không, tức Phật, tức tâm, lẽ tự nhiên…Như vậy pha cả Phật giáo lẫn Đạo Giáo”[7].
Trên đây chỉ là những nét tóm tắt các tư tưởng thiền trước thời Trần và tư tưởng thiền “tiền Trúc Lâm” với hai nhân vật tiêu biểu (Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ) mà Thiền Trúc Lâm kế thừa. Di sản mà Thiền Trúc Lâm để lại gồm cả Phật giáo và Phật học.
Về Phật giáo: đó là Phật giáo nhất tông, với việc tổ chức giáo hội (Tăng giá) khá quy củ. Giáo hội Trúc Lâm có văn phòng trung ương đặt ở chùa Vĩnh Nghiêm làm nơi cất giữ hồ sơ của tăng sĩ toàn quốc. Các chức vụ của tăng sĩ trong giáo hội được quy định. Tăng sĩ được cấp độ điệp (một loại giấy thông hành) để có thể di chuyển không bị trở ngại và được các chùa đón tiếp. Năm 1308, Pháp Loa là người đầu tiêu được vua Anh Tông cấp độ điệp khi nhận chức trụ trì chùa Báo Ân ở Siêu Loại.
Một trong những sơn môn có tổ chức quy củ là sơn môn Quỳnh Lâm (thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay). Chùa là cơ sở quản trị trung ương giáo hội Trúc Lâm. Chùa Quỳnh Lâm áp dụng chế độ tam bảo nô thay thế cho chế độ canh – phu, những người cày cấy làm việc cho chùa. Trong chùa còn có tịnh nhân (người trong sạch) phát tâm làm việc cho chùa mà không đòi hỏi công xá.
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận cho biết khá chi tiết về cơ cấu tổ chức và nhân sự của giáo hội Trúc Lâm với các chức vụ Viện chủ (giám viện hay trụ trì) là chức vụ cao nhất của tự viện; giảng chủ, vị giảng sư cao nhất trong các vị giáo thụ; Tri sự lo việc điều hành tổ chức; Tri sự viên sắp đặt công việc ruộng vườn. Người chịu trách nhiệm về thư viện, kinh sách là Tri tạng. Thủ khố giữ các kho chứa sản vật, tài vật của tự viện. Ngoài ra còn các các chức vị thư ký hay thư trạng, tri liêu, tri chúng (có khi gọi là thủ chúng) đảm đương các công việc về văn kiện thư tín, sớ điệp; phân phối quản trị phòng ốc, điều hợp tăng chúng.
Về đời sống tu tập: Vị duy na hướng dẫn các buổi lễ, điều hành các nghi thức tụng niệm. Phụ tá cho duy na là vị duyệt chúng. Tại nhiều chùa, tăng chúng làm lễ sáu lần trong một ngày. Sách Tam Tổ Thực lục cho biết, tu viện của Thiền sư Pháp Loa áp dụng nghi thức 6 thời một ngày (lục thời nghi). Nhiều chùa chỉ có tụng niệm buổi sáng và buổi tối, gọi là hai buổi công phu, thêm vào nghi thức cúng Phật vào buổi trưa, đúng giờ ngọ([8]).
Thống nhất các tông phái trong một ngôi nhà chung Phật giáo của giáo hội Trúc Lâm về sau được thể hiện rõ nhất trong việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (tháng 11 – 1981). Các hình thức tổ chức, kèm theo đó là các chức vị của giáo hội Trúc Lâm, thời kỳ sau tiếp tục kế thừa.
Về Phật học. Thiền học Trúc Lâm là sự kết hợp của Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền học Phật giáo Trúc Lâm tựu trưng rõ nét nhất trong thiền học của Trần Nhân Tông (1258 – 1308). Thiền học của Trần nhân Tông mà ngày nay các nhà nghiên cứu đúc rút ra là dựa vào 09 câu sư đệ vấn đáp, bài phú Cư trần lạc đạo, bài Đắc thủ lâm tuyền thành đạo ca. Tác giả Nguyễn Duy Hinh trong tác phẩm: Lịch sử Đạo Phật Việt Nam lần lượt phân tích 09 câu sư đệ vấn đáp và bài phú Cư trần lạc đạo để chỉ ra những tư tưởng thiền học của Trần Nhân Tông.
Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh chín câu vấn đáp bàn về bản thể/hiện tượng, tư tưởng chủ đạo của chư Phật là một hay khác, tự nhiên, phá chấp của Lâm Tế Nghĩa Huyền. Không có gì mới mẻ về tư tưởng Phật giáo. Tác giả Nguyễn Duy Hinh cho rằng, ngoài chín câu vấn đáp còn có 6 câu hỏi và 4 bài kệ nằm trong bài phú Cư trần lạc đạo góp phần tạo nên tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông (Trần Khâm). Theo đó 6 câu hỏi liên quan đến bài phú tác giả giải thích một số khái niệm: Chân Như; Chân Phật; Chân Kinh. Với bốn bài kệ, sau mỗi bài kệ Nguyễn Duy Hinh chỉ ra nghĩa cốt lõi của nó.
Với bài kệ thứ nhất, Vua Trần muốn nói đến tâm và pháp là một. Vạn pháp quy nhất thì gọi là nhất thể Như Lai, nghĩa là cái vốn có Như Thế. Vua Trần giải thích Như Lai bằng vạn pháp quy nhất theo nghĩa Đại Thừa của Tathăgata, đồng thời theo nghĩa thông dụng chỉ Phật giáo nói chung.
Với bài kệ thứ hai, Nguyễn Duy Hinh giải nghĩa: Vạn pháp đều từ Tâm sinh ra. Tâm không có chỗ sinh, không có chỗ trụ. Nếu như đạt đến Tâm thông suốt không chướng ngại, không gặp người thượng căn (căn cơ cực tốt) thì chớ khinh suất nói cho họ. Đấy là tư tưởng Kinh Kim Cương.
Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh, bài kệ thứ ba được hiểu là: Chân như (chân lý tuyệt đối) của dòng Bát Nhã có nội dung Nhân không, Ngã không. Chư Phật tam thế (quá khứ, hiện tại vị lai) vốn cùng pháp tính. Nhân không chỉ chủ thể không có tự tính, tức Nhân vô ngã. Ngã không tức tự tính cũng không. Nhân không, Ngã không là nói hiện tượng cũng như tự tính đều không vì tứ đại giai không, chỉ do nhân duyên hòa hợp mà có. Đó là tư tưởng Bát nhã trong Kinh Bát Nhã.
Bài kệ thứ tư, nội dung nói về Phật Tính.
Sau khi phân tích chỉ ra nội dung 6 câu hỏi, 4 bài kệ, Nguyễn Duy Hinh cho rằng đó chính là chú thích cho Hội thứ tư chủ yếu ở câu 49, 50 của bài phú Cư Trần Lạc Đạo.
- Hỏi pháp chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.
- Biết Chân như, tin Bát nhã chớ còn tìm Phật tổ.
Sau khi phân tích mười hội của bài phú Cư trần lạc đạo, tác giả Nguyễn Duy Hinh khái quát tư tưởng của Trần Nhân Tông (Trần Khâm) như sau: Trần Khâm theo tư tưởng tức Tâm, tức Phật, tức chỉ có Tâm (pháp, tông) không thừa nhận pháp (tông phái) nào khác (như Tịnh độ, Thiên thai…). Không phân biệt tây đông (Tây Thiên, Đông Độ), nam bắc (nam Huệ Năng, bắc Thần Tú), năm tông của Thần tông “Chẳng khác nhiều đàng, chẳng xa cách mấy gang”. Ông nhấn mạnh tu hành hơn là tranh luận “học thuyết”.
Về sau Tư tưởng của Pháp Loa cũng giống như Trần Nhân Tông: tức Tâm, tức Phật không phân biệt tông phái của Thiền tông.
Huyền Quang (1254 – 1334) tổ chức ba của Trúc Lâm, theo Nguyễn Duy Hinh, là thiền sư đậm Nho học hơn Đạo học. Ông không dốc lòng truyền giáo như Pháp Loa, chỉ chuyên trị tâm của mình hơn lo việc Tăng già. Đó là buổi tàn của Phật giáo Đại Việt.
Nhìn khái quát tư tưởng Phật giáo tông Trúc Lâm là tư tưởng tức Tâm tức Phật của Mã Tổ Đạo Nhất, nhưng có lựa chọn. Sự lựa chọn, mà Trần Thái Tông gọi là “Việt lộ” (con đường Việt), giữ tư tưởng Nhất Thừa giáo tông, không ra vào đánh hét, giải công án.
Tư tưởng Trúc Lâm thích hợp với tâm linh, tôn giáo người Việt, hướng về tu tâm dưỡng tính làm việc thiện, hơn là nghiên cứu giáo lý uyên bác… xu hướng dân gian vẫn là cái nền bất diệt([9]).
Nguyễn Đức Sự trong bài: Trần Nhân Tông nhà Thiền học, nhà tư tưởng lỗi lạc thời Trần([10]) chỉ rõ “Trên phương diện Thiền học, Trần Nhân Tông đã tiến xa hơn các nhà Thiền học tiền bối của ông ở chỗ, ông đã nói rõ nội dung và mối quan hệ giữa Phật tính và pháp thân, giữa tâm tính và Phật” và “từ góc độ Thiền học, Trần Nhân Tông đã làm sáng tỏ hơn nữa vấn đề bản thể của vũ trụ và vạn vật. Ông dùng khái niệm bản và gốc để chỉ cái bản thể đó. Đối với ông bản thể đó tồn tại trong mọi sự vật khắp mọi nơi. Nhưng điều mà ông quan tâm và luôn khẳng định là ở chỗ, ông chỉ rõ cái bản thể đó tồn tại ở bên trong mỗi con người. Đó chính là Phật tại tâm. Con người muốn kiến tính, muốn thấy Bụt thì không cần tìm kiếm ở đâu ngoài bản thân mình. Sự kiến tính, sự thấy được Bụt đó trong lòng mình là giác ngộ”([11]). Tác giả Nguyễn Đức Sự trong bài viết đề cập ở trên đánh giá cống hiến quan trọng của Trần Nhân Tông với Thiền học Thời Trần là ông nâng tư tưởng nhập thế thời Trần lên một tầm cao mới. Tư tưởng nhập thế không chỉ trên phương diện thiền học mà còn là “Cư trần lạc đạo”. Phật tử đã ngộ đạo khi gắn mình với cuộc sống hiện thực, phải làm tròn bổn phận đối với xã hội, sát cánh với cộng đồng dân tộc tham gia vào công cuộc dựng nước và giữ nước đương thời([12]).
Tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông cũng là tư tưởng Thiền Trúc Lâm. Bởi Phật hoàng là đệ nhất tổ, là người có công lớn gây dựng Thiền học Trúc Lâm.
Tổng luận về Phật giáo Đời Trần, Nguyễn Lang viết: “Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập; uy tín, tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương diện tư tưởng, tổ chức cũng như hành đạo, giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo khiến cho nó chỉ có thể là một giáo hội Việt Nam, phục vụ cho người Việt, duy trì và bối đắp cá tính Việt”([13]).
Từ những phân tích, đánh giá của Nguyễn Duy Hinh, Nguyễn Đức Sự, Nguyễn Lang về Phật giáo Trúc Lâm cho thấy Thiền Phật giáo Trúc Lâm nổi lên ba phương diện cũng là ba giá trị: (1) tư tưởng; (2) tổ chức; (3) hành đạo. Ba phương diện này lần lượt thể hiện ở Phật giáo Việt Nam hậu Trúc Lâm. Với các hình thức, mức độ và thời điểm khác nhau.
Thiền sư Chân Nguyên với việc phục hưng Thiền Phật Giáo Trúc Lâm
Thế kỷ XVII – XVIII Phật giáo Việt Nam có nhiều biến động. Đất nước Việt Nam chia thành Đàng Trong và Đàng Ngoài. Phật giáo Việt Nam theo đó cũng chia làm hai miền. Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh, Phật gió thời kỳ này có những dòng cơ bản sau:
- a) Dòng Trúc Lâm mà tiêu biểu là Hương Hải theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Quảng, rồi đến năm 1682 phải trốn ra Đàng Ngoài.
- b) Dòng Lâm Tế từ Hoa Nam đường thủy sang, Chuyết Chuyết đến Đồng Nai năm 1630, năm 1633 ra Đàng Ngoài. Nguyên Thiều đến Quy Nhơn năm 1655 lập chùa Thập Tháp, đến khoảng năm 1687 thì về Hoa Nam mộ một số nhà sư trở sang theo yêu cầu của Chúa Nguyễn để lấp vào chỗ trống do Hương Hải ra đi.
- c) Dòng Tào Động do Thạch Liêm, năm 1695 đem vào, song ảnh hưởng không lớn, có lẽ vì dòng Nguyên Thiều mạnh.
- d) Dòng Thiền sư theo chân Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên rồi Mạc Cửu vào Đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1679 về sau.
đ) Dòng Tiểu thừa của Phật giáo Khmer([14]).
Ở Đàng Ngoài một cơ duyên đến với Tông Trúc Lâm với vai trò của một danh tăng tiêu biểu – Chân Nguyên (1647-1726). Thiền sư họ Nguyễn tên Nghiêm (Nguyễn Văn Nghiêm), hiệu là Đình Lân, quê làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương. Thiền sư xuất gia năm 19 tuổi với Thiền sư Chân Trú tại chùa Hoa Yên, pháp danh Tuệ Đăng. Khi thiền sư Chân Trú qua đời, Ngài đến chùa Vĩnh Phúc, núi Côn Cương, làng Phù Lãng tham học với Thiền sư Minh Lương (đệ tử của Thiền sư Chuyết Chuyết) và được Thiền sư Minh Lương đặt pháp hiệu là Chân Nguyên. Căn cứ vào pháp danh cho thấy ngài là đệ tử đời thứ hai tông Lâm Tế Đàng Ngoài. Sau khi lãnh ngộ, đắc pháp, Thiền sư Minh Lương giao dòng thiền Lâm Tế cho Chân Nguyên kế thừa và làm hưng thịnh. Nhưng Thiền sư Chân Nguyên lại được giao trụ trì chùa Long Động (Chùa Lân) ở núi Yên Tử và chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay) là hai tổ đình thuộc dòng Trúc Lâm. Đây là cơ duyên để Thiền sư học hỏi, tiếp thu thiền học Trúc Lâm để rồi góp phần chấn hưng Thiền học Trúc Lâm. Thành tựu chấn hưng của Thiền sư Chân Nguyên trước hết phải kể đến các tác phẩm của ông và việc ông cùng với các thiền sư đời sau hiệu đính, trùng khắc một số tác phẩm.
Chân Nguyên có 11 tác phẩm: Tôn sư pháp sách đăng đàn thọ giới; Nghênh sư duyệt định khoa; Long thư Tịnh Độ văn; Long thư Tịnh Độ luận bạt hậu tự; Tịnh Độ yếu nghĩa; Ngộ đạo nhân duyên; Thiền tông bản hạnh; Nam Hải Quan Âm bản hạnh; Thiền tịch phú; Đạt Na thái tử hạnh; Hồng mông hạnh.
Thiền sư Chân Nguyên hiệu đính và trùng khắc Thánh Đăng lục. Theo gương ông, các đời sau có Như Trí trùng san Thiền Uyển Tập Anh (1715), Như Sơn soạn Kế Đăng Lục (1734), Tuệ Hiền trùng khắc Khóa Hư lục, Huệ Nguyên trùng san Thượng sĩ ngữ lục (1763)([15]).
Nhưng đóng góp quan trọng nhất của Thiền sư Chân Nguyên là về lĩnh vực Thiền học thể hiện trong một số tác phẩm của ông như Thiền tịch phú, Trần Triều Thiên Tôn chỉ nam Truyền tâm quốc ngữ hành, Thiền tông bản hạnh.
Trong quyển Trần Triều Thiên Tôn chỉ nam Truyền tâm quốc ngữ hành, Chân Nguyên đề cập đến “tứ mục tương cố” (bốn mắt nhìn nhau), một cách truyền tâm ấn. Chính ông đắc pháp với Minh Lương bằng “tứ mục tương cố”. Tứ mục tương cố còn được Chân Nguyên nhấn mạnh trong bài Ngô đạo nhân duyên. Qua Thiền tông bản hạnh và kệ Thị tịch, Chân Nguyên trình bày các vấn đề về bản thể. Theo ông, bản thể là tự tính tồn tại trong vạn pháp, đó chỉ là giả, là quyền mà có mọi hiện tượng, còn thực chất thì không có gì cả. Bản thể là không.
Vạn pháp không hoa giai bất thực
Vị độ quần sinh giả lập quyền
Liễu liễu bản lai vô nhất vật
Chân nguyên trạm tịch phục hoàn nguyên.
Nghĩa là: Vạn pháp (mọi hiện tượng) như không hoa, không thực. Chỉ vì để độ chúng sinh mà Phật đưa ra giả danh là quyền (theo tình thế) mà thôi. Nhận thức được vốn không có cái gì cả thì lại thấy được chân nguyên (bản thể) lặng yên hoàn toàn.
Tự tính được Chân Nguyên thể hiện trong bài kệ truyền pháp, dặn dò đệ tử trước khi qua đời.
Hiển tích phân minh thập nhị thì
Thử chi tự tính nhậm suy vi
Lục căn vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành chính biến tri.
Nghĩa là: Tự tính bày ra suốt ngày rõ ràng, lục căn cũng thường thấy, vạn pháp dọc, ngang giác ngộ ngay([16]).
So chiếu với tư tưởng Thiền Trúc Lâm có thể thấy tư tưởng của Chân Nguyên về bản thể, tự tính, tâm là sự kế thừa của Thiền pháp Trúc Lâm. Vì vậy mà Nguyễn Lang đánh giá: “Chính Chân Nguyên và các đệ tử của ông đã phục hưng phái Trúc Lâm, cứu vãn được một số quan trọng những tác phẩm của Thiền tổ Trúc Lâm bằng cách sưu tầm, hiệu đính, khắc bản và lưu hành những tác phẩm này”([17]).
Tác giả Nguyễn Duy Hinh lại đưa cách nhìn khác: “Nhìn khái quát lại tư tưởng Phật giáo Chân Nguyên cơ bản vẫn là tư tưởng Trúc Lâm, tuy nhận truyền thừa Lâm Tế, song trong thực tế không thể hiện các đặc trưng Lâm Tế của Nghĩa Huyền hay Dương Kỳ Phương Hội. Tư tưởng Tự tính không Giả danh đều được đề cập, nhưng không nhấn mạnh Tâm như tông Trúc Lâm, mà nhấn mạnh bản lai vô nhất vật (Chân nguyên)”([18]).
Trúc Lâm với phong trào chấn hưng Phật giáo nhìn từ phương diện tổ chức Giáo hội
Từ nửa đầu thế kỷ XX Phật giáo Viêt Nam xuất hiện phong trào chấn hưng. Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng tư tưởng của Hòa thượng Thái Hư (1890-1947) người Trung Quốc. Hòa thượng Thái Hư đưa ra quan điểm cải cách gồm 3 điểm: (1) cách mạng giáo lý; (2) cách mạng giáo chế; (3) cách mạng giáo sản. Trong ba nội dung trên, theo Thái Hư cách mạng giáo chế là căn bản nhất, quan trọng nhất, bởi khi nào có được tăng già chân chính, xây dựng một tổ chức nghiêm trang lúc đó mới bảo đảm cho hai cách mạng còn lại thành công.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên, với Phật giáo Việt Nam công việc tiến hành đầu tiên cũng là “cách mạng giáo chế”. Sở dĩ như vậy, theo một số tăng sĩ và cư sĩ “Tăng già Việt Nam chỉ còn cái xác sơn môn mà hồn sơn môn mất hẳn”. Công cuộc “cách mạng giáo chế cho ra đời những mô hình tổ chức Tăng già dưới các dạng hội đoàn thể, tập hợp tăng, chúng, không phân biệt sơn môn, pháp phái. Công đầu thuộc về Thiền sư Khánh Hòa (1877-1947). Hòa thượng thế danh là Lê Văn Hiệp, sinh năm 1877, quê làng Phú Lỗ, tổng Bảo Tri, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Từ nhỏ ngài học chữ Hán, hai năm cuối theo học thày Nguyễn Đình Chiểu, nhờ vậy đạt được nền tảng rất vững chắc về Hán học”.
Ngày rằng tháng 3 năm Ất Mùi (1895) ngài xin phép song thân đến chùa Long Khánh xuất gia và được thiền sư Chơn Tánh ban cho pháp danh Khánh Hòa.
Trong 4 chương trình Hòa thượng Khánh Hòa lập ra, chương trình đầu tiên là “lập hội Phật giáo”. Trong suốt cuộc đời, Hòa thượng luôn đau đáu cho chương trình đầu tiên này. Bắt đầu từ tháng giêng năm Mậu Thìn (1928) Hòa Thượng họp cùng một số nhà sư: Huệ Quang, Từ Nhẫn, Chơn Huệ, Thiện Chiếu… tạo nền tảng lập Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học. Để rồi ngày 26 – 8 – 1931, Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học được phép thành lập và đi vào hoạt động. Hội có điều lệ, có các chức danh lãnh đạo. Đây là hình thức tổ chức mới của Phật giáo Việt Nam. Bởi trước đó Phật giáo tổ chức theo sơn môn, pháp phái, lấy thanh quy, tổ ấn, tông phong và giới luật để duy trì mạng mạch.
Khi Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học bất đồng nội bộ, Hòa Thượng Khánh Hòa về miền Tây mở Liên đoàn Phật học xã. Liên đoàn hoạt động được 9 tháng thì tan rã do thiếu kinh phí. Không chán nản dừng bước, Hòa Thượng Khánh Hòa tiếp tục thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật học (ngày 13 – 8 – 1934) (Lưỡng Xuyên có nghĩa là “hai con sông”, sông Tiền, sông Hậu). Theo thời gian các tổ chức Phật giáo Việt Nam ở 3 miền tiếp tục được thành lập. Đó là Hội Phật giáo kiêm Tế (23 – 3 – 1937), hội Tịnh Độ cư sĩ, hội Thiên Thai Thiền giáo tông Liên hữu, hội Phật giáo Liên hữu, hội Phật giáo Tương tế. Tại Trung kỳ có: Hội An Nam Phật học Trung kỳ (1932), Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục (1940), vào ngày Phật đản 1944 một đại hội Thanh thiếu niên Phật giáo được tổ chức tại rừng Quảng Tế. Đại hội này khai sinh Gia đình Phật hóa phổ, tiền thân tổ chức Gia đình Phật tử sau này. Ở Bắc kỳ là các tổ chức: Lục hòa tịnh lữ, Phật học Tùng thư, Hội Phật giáo Bắc kỳ.
Các tổ chức trên dưới các hình thức khác nhau có điều lệ, thành lập cơ cấu tổ chức, theo đó là các chức vị điều hành, có thể có một số ban đảm nhiệm các phần việc khác nhau của tổ chức. Chẳng hạn như Hội Phật giáo Bắc kỳ (thành lập ngày 6 – 11 – 1934), tổ chức theo mô hình hiệp hội. Hội viên chia làm 5 loại. Về cơ cấu tổ chức gồm: Hội Trưởng danh dự; Hội Trưởng sáng lập; Thiền gia pháp chủ: Ban quản trị điều hành các công việc lớn của hội. Giúp việc cho Ban quản trị là Hội đồng thường trực. Ban Đạo sự gồm các vị cao tăng thạc đức trong hội. Thời gian đầu Hội có 12 ban chức năng: Ban Chứng minh đạo sự thứ nhất, Ban Chứng minh đạo sự thứ hai, Ban Cố vấn thực thụ, Ban Giáo sư, Ban Giám viện kiêm Tri tạng, Ban Duy na, Ban Thư ký, Ban Đương gia, Ban Ứng cúng trợ niệm, Ban Hộ giảng, Ban Khảo cứu Phật học và Diễn giảng, Ban Hộ niệm. Về sau theo thời gian, Hội thành lập thêm một số ban khác.
Việc thành lập các tổ chức Phật giáo ở 3 miền Bắc, Trung, Nam thực sự là một cuộc cách mạng về phương diện tổ chức (Tăng già, Tăng đoàn) của Phật giáo Việt Nam. Đây chính là cơ sở để Phật giáo Việt Nam trải qua những lần thống nhất để rồi tháng 11/1981, chín hệ phái Phật giáo cả nước vân tập về chùa Quán Sứ, Thủ đô Hà Nội thành lập nên tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ thời điểm trên Phật giáo Việt Nam chỉ còn một tổ chức duy nhất.
Thành tựu trên cho đến nay các công trình nghiên cứu đều nhận định đó là nhu cầu đặt ra đối với Tăng già Việt Nam đương thời dưới tác động của tư tưởng chấn hưng Phật giáo. Điều này chắc không ai bàn cãi. Song phải chăng nhu cầu thống nhất Phật giáo trong một số tổ chức của Phật giáo Việt Nam thời cận, hiện còn là sự thừa kế tư tưởng Phật giáo nhất tông của Trúc Lâm và mô hình tổ chức hội Phật giáo ở ba miền chịu ảnh hưởng mô hình tổ chức giáo hội Trúc Lâm thời Trần. Đó còn là ảnh hưởng mô hình điều hành, quản trị tăng già giáo hội Trúc Lâm cũng như mô hình điều hành ở một số tự viện mà mô hình sơn môn Quỳnh Lâm đã đề cập ở trên là một ví dụ.
Thiền Trúc Lâm từ cuối thế kỷ XX đến nay
Một thời kỳ dài những giá trị của Thiền Trúc Lâm chỉ tồn tại ẩn tàng trong cơ tầng Thiền Phật giáo Việt Nam. Nhưng rồi duyên lành đã đến, từ cuối thế kỳ XX đến nay Thiền Trúc Lâm được khôi phục. Trải thời gian, công việc khôi phục đã và đang đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận.
Người có công đề xướng, dành trọn tâm huyết cho việc khôi phục Thiền Trúc Lâm là Hòa Thượng Thích Thanh Từ. Hòa Thượng có thế danh là Trần Thanh Từ, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tý (1924), tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long). Năm 1949, ngài xuất gia với Hòa thượng Thích Thiện Hoa và được ban pháp danh là Thích Thanh Từ. Từ năm 1960 – 1964, Hòa Thượng lần lượt giữ các chức vụ trong Phật giáo: Phó Vụ trưởng Phật học vụ, Vụ trưởng Phật học vụ, Giáo sư kiêm Quản viện Phật học, Viện Huệ Nghiêm, Giảng sư Viện Đại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm.
Với quyết tâm tinh tiến trên con đường đạo nghiệp, tự khai mở lối đi cho mình, Hòa thượng nhập thất, công phu (4-8/1968) để rồi bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa đạo pháp. Công việc hoằng hóa được thực hiện từ đầu năm 1970, trên núi Tương Kỳ, Vũng Tầu với việc xây dựng cơ sở tu viện, thu nhận tăng ni. Hai khóa tu do Hòa thượng mở thành công, tiếng tăm của Hòa thượng lan rộng. Những biến động của thời cuộc, một thời gian khoảng 10 năm (1975-1985) công việc hoằng pháp của Hòa thượng gần như bị ngưng trệ. Sự kiện đánh dấu việc hoằng pháp của Hòa thượng bước vào giai đoạn mới từ cuối năm 1986 với việc Hòa thượng khởi công xây dựng thiền viện tại Đà Lạt (Thiền viện Phượng Hoàng). Thời gian từ 1986 đặc biệt từ năm 1993 đến năm 2002, Hòa thượng chủ yếu tập trung vào xây dựng, củng cố Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng, đưa Thiền viện vào nền nếp tu tập, xây dựng mô hình tổ chức, cơ cấu nhân sự, xây dựng thanh quy thiền phái. Trên cơ sở những thành tựu đạt được, kể từ năm 2003, Hòa thượng lần lượt xây dựng nhiều Thiện viện Trúc Lâm ra cả nước, theo đó là hoàn chỉnh phương thức tu thiền, mô hình tổ chức, cơ cấu nhân sự…
Mục đích của việc thành lập Thiền viện Trúc Lâm và sau này là một loạt Thiền viện Trúc Lâm với phương thức tu thiền mô hình tổ chức, cơ cấu nhân sự… được Hòa thượng khẳng định trong ngày khai trương Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt “chúng tôi thành lập Thiền viện Trúc Lâm với mục đích khôi phục Thiền tông Việt Nam. Nói khôi phục Thiền tông Việt Nam tức là làm sống dậy Thiền tông đời Trần. Bởi vì Thiền tông đời Trần mới có đủ tư cách tiêu biểu cho Thiền tông Việt Nam. Kể từ thế kỷ thứ VII về sau, các phái Thiền từ Trung Hoa đã truyền sang Việt Nam. Mãi đến thế kỷ thứ XIII, vua Trần Nhân Tông đi xuất gia lấy hiệu Trúc Lâm Đại Đầu – đà, tu trên núi Yên Tử, mới thành lập phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đây là phái Thiền Việt Nam đầu tiên trên đất nước Việt Nam. Thiền tông đời Trần cũng là Phật giáo đời Trần, vì thời này các thiền sư là người lãnh đạo Phật giáo Việt Nam”([19]).
Sự khôi phục Thiền Trúc Lâm được Hòa thượng thực hiện và thành công ở một số lĩnh vực sau đây.
Thứ nhất, Hòa thượng dành nhiều thời gian sưu tầm, dịch thuật thân thế, sự nghiệp đặc biệt là trước tác của Tam Tổ Trúc Lâm (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang). Trên cơ sở đó Hòa thương soạn thành các bài giảng, giảng trong các khóa tu. Những tư tưởng của Tam Tổ Trúc Lâm một mặt được hoằng dương, mặt khác được sưu tầm, dịch thuật. Những bài giảng của Hòa thượng về sau được in thành sánh với tựa đề “Tam tổ Trúc Lâm giảng giải” với số lượng lớn và được tái bản.
Cho đến thời điểm 2015, Hòa thượng cho ấn hành hàng chục công trình nghiên cứu về Phật giáo, Phật học, thiền học. Đặc biệt đã có “Tủ sách Thiền học Phật giáo Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ”. Theo đó, cho đến thời điểm 2015 đã ấn hành được các công trình sau đây: Khóa hư Lục giảng giải; Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục giảng giải; Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải; Tham đồ hiển quyết và thi tụng các Thiền sư Đời Lý giảng giải; Thánh Đăng Lục giảng giải; Bát Nhã Trực giải; Thiền sư Việt Nam; Luận giải thư tụng mười bức tranh chăm trâu của Thiền sư Quảng Trí; Hương Hải Thiền sư giảng giải; Kiến Tánh Thành Phật giảng giải; Pháp Hoa đề cương. Đó quả là một “tủ sách” đồ sộ nhờ đó mà thiền học nói chung, thiền học đời Trần trong đó có Thiền Trúc Lâm được hoằng dương không chỉ trong Phật giáo (tăng, ni, phật tử) mà còn hoằng dương toàn xã hội. Những tư tưởng Thiền, Thiền đời Trần, Thiền Trúc Lâm được khôi phục, được cắt nghĩa, giảng giải cặn kẽ vừa lề lối vừa mang tính hiện đại. Căn cội, giáo nghĩa thâm sâu qua “giảng giải” của Hòa thượng dễ dàng được hội chúng và đông đảo bạn đọc chấp nhận.
Thứ hai, từ thời điểm 2003, dưới sự chỉ đạo, trợ duyên của Hòa thượng, hàng loại Thiền viện Trúc Lâm được xây dựng ở cả nước tạo nên một “hệ thống Thiền viện Trúc Lâm”. Ngoài ra Hòa thượng còn đi du hóa mở đường xiển dương Thiền Trúc Lâm ra hải ngoại với các quốc gia; Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc. Các thiền viện đều có mô hình tổ chức, cơ cấu nhân sự, một mặt theo một quy chuẩn thống nhất([20]), mặt khác có tính đến yếu tố đặc thù cho phù hợp với sinh hoạt từng vùng, miền. Hòa thượng Thích Thanh Từ vừa là Thày Tổ của tất cả các thành viên trong Thiền phái vừa là người lãnh đạo tối cao trong Thiền phái. Hiện nay, Ban Quản trị Thiền phái Trúc Lâm thay thế Hòa thượng quản lý với gần 60 thiền viện, thiền tự trong cả nước.
Thứ ba, hình thành nên phương thức tu thiền trong hệ thống Thiền viện Trúc Lâm, đó là phương thức THIỀN – GIÁO SONG HÀNH. Giáo được hiểu các tu sĩ chuyên tâm học tập và trì tụng tam tạng kinh điển. Thiền mà Hòa thượng sử dụng là phương pháp tu “tri vọng”. Quan điểm của Hòa thượng là: “khi lập tu viện tôi chủ trương thiền, giáo song hành, hai bên phải nương nhau, nương giáo để thông thiền, nhờ tu thiền sáng được kinh (giáo)”([21]).
Hòa thượng chọn lọc kinh luận thiết yếu cho tu sĩ tu giáo.
Phương thức tu “tri vọng” là tu “biết vọng không theo”. Theo đó “trong giờ phút nào cũng sống trong sự tỉnh giác”([22]).
Phương thức Thiền – giáo song hành khắc phục được lối tu hoặc chỉ thiên về giáo, hoặc chỉ thiên về thiền. Mà thiền là thiền thoại đầu, chủ trương độn công phu, dùng hết tâm lực khán câu thoại đầu của vị thày hướng dẫn cho tới khi giác ngộ mà ít chú trọng đến kinh điển.
Thiền, giáo song hành là sự kết hợp chặt chẽ, không khinh, trọng vế nào. Phương thức tu song hành thiền, giáo phù hợp với tu hành hiện đại. Đó là sự kết hợp ba mốc thiền tông từ Trung Hoa đến Trúc Lâm: “Chúng tôi không theo các tông phái chi nhánh Thiền tông Trung Hoa sau này, như Tông Tào Động, Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Vận Môn, Pháp nhãn. Chúng tôi chỉ kết hợp ba mốc quan trọng trong dòng lịch sử truyền thừa Thiền Tông từ Trung Hoa đến Việt Nam. Mốc thứ nhất là Nhị tổ Huệ Khả, mốc thứ hai là Lục tổ Huệ Năng, mốc thứ ba là Sơ tổ Trúc Lâm. Hòa hội chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng tu hành của ba vị Tổ này thành phương pháp tu thiền trong các thiền viện chúng tôi”([23]).
Với việc hoằng dương thiền học chủ yếu là thiền học đời Trần, thiền Trúc Lâm; xây dựng các thiền viện với tên gọi Trúc Lâm, mô hình tổ chức, nhân sự điều hành; phương thức tu thiền song hành thiền, giáo mà một trong những nội dung được kế thừa từ sơ tổ Trúc Lâm, cho thấy Hệ thống Thiền viện Trúc Lâm mà thày tổ là Hòa thượng Thích Thanh Từ rõ ràng đang đi theo đường hướng khôi phục Thiền Trúc Lâm. Đường hướng đã được Hòa thượng Thích Thanh Từ đặt ra cùng với chư tăng, đệ tử kiên tâm đeo đuổi. Những thành tựu mới chỉ là bước đầu nhưng đã và đang đặt nền móng vững chắc cho tương lai cho một “dòng” thiền Trúc Lâm hiện đại.
Kết luận
Thiền Trúc Lâm không chỉ là đỉnh cao của Phật giáo thời Trần mà còn là đỉnh cao của Phật giáo Đại Việt. Trải quá trình tồn tại, Thiền Trúc Lâm tác tạo những giá trị to lớn, tiêu biểu nhất thuộc về 3 lĩnh vực: Thiền học, tổ chức giáo hội và phương thức tu tập, hành trì đạo pháp.Thiền Trúc Lâm hưng thịnh và suy vi cùng với triều đại Trần. Song những giá trị mà nó để lại, theo thời gian đã được khôi phục và chấn hưng ở nhiều chiều cạnh khác nhau. Trong bài viết chúng tôi chỉ tập trung vào một số lĩnh vực. Đó trước hết là việc chấn hưng thiền học với vai trò của Thiền sư Chân Nguyên. Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX với công cuộc “cách mạng giáo chế” thành lập nên các hội Phật giáo làm tiền để cho các cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam mà thành tựu lớn nhất là việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (tháng 11 – 1981). Sự việc trên hẳn là Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của việc Thiền Trúc Lâm thống nhất thiền phái lập nên Giáo hội nhất tông thời Trần.
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, Thiền Trúc Lâm được khôi phục với công lao đầu tiên thuộc về Hòa thượng Thích Thanh Từ. Những tư tưởng Thiền học Thời Trần, đặc biệt là Thiền học Trúc Lâm được Hòa thượng xiển dương, hoằng hóa qua các bài giảng, qua ấn tống. Hàng loạt Thiền viện được xây dựng ở cả nước và một số quốc gia hải ngoại. Các thiền viện không chỉ mang tên Trúc Lâm mà quan trọng hơn được tổ chức với mô hình, cơ cấu nhân sự, thanh qui được tham chiếu từ Giáo hội Trúc Lâm. Phương thức tu thiền “Thiền – giáo” song hành được Hòa thượng kế thừa từ Trúc Lâm, đó là một trong ba mốc được Hòa thượng và các đệ tử kế thừa.Thiền Phật giáo hậu Trúc Lâm vì vậy vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ.
Tài liệu thao khảo
- Nguyễn Duy Hinh: Lịch sử Đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo và Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2003.
- Nguyễn Lang; Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Phương Đông, 2012.
- Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) con người và sự nghiệp, Thượng tọa, TS Thích Thanh Quyết, TS. Nguyễn Quốc Tuấn (chủ biên), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2013.
- Ban Văn hóa Thường Chiếu: Thích Thanh Từ toàn tập, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2014.
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban văn hóa Trung ương: Tam tổ Trúc Lâm giảng giải, Hòa thượng Thích Thanh Từ, Thiền viện Thường Chiếu, 1997.
- HT. Thích Thanh Từ: Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX. Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016.
[1] Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
[2] . Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Phương Đông, 2012 tr 111.
[3] . Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr 137.
[4] . Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr 142-144.
[5] . PGS. Nguyễn Duy Hinh: Lịch sử Đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Nxb Từ điển Bách khoa, 2009, tr 312.
[6] . PGS. Nguyễn Duy Hinh: Lịch sử Đạo Phật Việt Nam, Sđd, tr 381.
[7] . PGS. Nguyễn Duy Hinh: Lịch sử Đạo Phật Việt Nam, Sđd, tr 428.
[8] . Xem Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, từ tr 369 đến trang 390.
[9] . Xem PGS. Nguyễn Duy Hinh: Lịch sử Đạo Phật Việt Nam, Sđd từ tr 428 đến tr 463.
[10] . Bài in trong cuốn: Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-13078) con người và sự nghiệp, Thượng tọa, TS. Thích Thanh Quyết, TS. Nguyễn Quốc Tuấn (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013.
[11] . Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) con người và sự nghiệp, Sđd, tr 514, 515.
[12] . Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) con người và sự nghiệp, Sđd, tr 518.
[13] . Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr 298.
[14] . PGS. Nguyễn Duy Hinh. Lịch sử Đạo Phật Việt Nam. Sđd, tr 298.
[15] . PGS. Nguyễn Duy Hinh. Lịch sử Đạo Phật Việt Nam. Sđd, tr 497, 498.
[16] . PGS. Nguyễn Duy Hinh. Lịch sử Đạo Phật Việt Nam. Sđd, tr 484.
[17] . Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr 441.
[18] . PGS. Nguyễn Duy Hinh. Lịch sử Đạo Phật Việt Nam. Sđd, tr 496.
[19] . Ban Văn hóa Thường Chiếu: Thanh Từ toàn tập, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2014, tr 172.
[20] . Các Thiền viện đều lấy Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng Đà Lạt làm hình mẫu từ kiến trúc nghệ thuật, cơ cấu nhân sự đến các sinh hoạt tu học. Các Thiền viện, Thiền tự đều bắt đầu với cụm từ Thiền viện Trúc Lâm sau đó mới đến cụm từ tên riêng. Chẳng hạn: Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên… cách đặt tên cho thiền viện, thiền tự như vậy hẳn Hòa thượng muốn nhắc nhở tăng, nin, phật tử tu hành, sống đạo theo truyền thống Thiền Trúc Lâm.
[21] . Ban Văn hóa Thường Chiếu: Thanh Từ toàn tập, Sđd, tr 126.
[22] . Ban Văn hóa Thường Chiếu: Thanh Từ toàn tập, Sđd, tr 135.
[23] . Ban Văn hóa Thường Chiếu: Thanh Từ toàn tập, Sđd, tr 235.